VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI ĐỨNG MỘT MÌNH

"Chúa Trời đứng một mình - nhưng quỷ sứ thì trái lại, nó tìm tới hội đoàn, nó nhiều vô kể" Henry David Thoreau

Mọi vấn đề của con người xuất phát từ chỗ họ không thể ngồi yên một mình trong phòng” - nhà toán học và triết học Pháp Blaise Pascal đã nói vậy vào giữa thế kỷ 17.

Căn nguyên của các rắc rối, theo ông, là chúng ta luôn tìm cách chạy trốn bản thân. Không muốn đối diện với chính mình, tâm trí con người luôn lùng sục điều kích thích tiếp theo, như một con khỉ không thể ngừng văng mình tới cành cây trước mặt. Từ cãi vã với hàng xóm tới xung đột giữa các quốc gia, nhiều điều tệ hại bắt nguồn từ lý do này.

CHẠY TRỐN BẢN THÂN

Năm ngoái, câu nói của Pascal được khoa học xác nhận. Trong một thí nghiệm của Trường đại học Virginia (Mỹ), những người tham gia được yêu cầu ngồi một mình 15 phút trong một căn phòng trống trơn, không có gì cả, ngoài một cái nút. Nếu bấm nút, họ sẽ bị điện giật.

Lẽ ra khoảng thời gian yên tĩnh này là cơ hội để người ta dừng lại, suy nghĩ, hồi tưởng, mơ màng. Nhưng với nhiều người, đó là một cực hình, đến nỗi họ tự nguyện bấm nút giật điện bản thân chỉ để có cái gì đó để làm, mặc dù trước khi thí nghiệm bắt đầu, họ đã được thử mức độ điện giật và ai cũng xác nhận là có được trả tiền cũng không muốn bị vậy.

Nếu sống ở đầu thế kỷ 21, chắc hẳn Pascal đã diễn tả khác đi một chút: “Mọi cái tệ hại của con người tới từ chỗ họ không thể rời cái điện thoại thông minh để ngồi yên một mình”.

Chưa bao giờ người ta lại dễ dàng chạy trốn bản thân như bây giờ. Không cần phải đợi về tới nhà để bật tivi lên nữa, bất cứ lúc nào và ở đâu, chỉ cần một cái gõ lên màn hình điện thoại là người ta sẽ được cuốn ra cái biển âm thanh hỗn độn của mạng xã hội.

Trong các quán cà phê, trên taxi, ở công viên, đâu đâu cũng là những con người toàn thân bất động, trừ một ngón tay cái đẩy lên đẩy xuống, mắt nhìn xuống, mặt vô hồn. Xác họ ở đó, nhưng hồn họ thì đang xô đẩy trong đám đông nhốn nháo trên mạng.

Túc trực từ sáng tới tối, đám đông này làu bàu, gầm gừ, lê lết từ tường nhà này tới tường nhà kia, từ trang tin này tới diễn đàn nọ, giật status, like, share, còm, kết bạn, theo dõi, block. Trên mạng, con khỉ tâm trí có vô vàn cành cây để nhảy nhót.

Con người hiện đại không biết phải làm gì với chính mình, và nếu người ta sẵn sàng giật điện bản thân chỉ vì buồn chán thì chúng ta có thể hình dung họ có thể làm những gì với người khác. Đám đông ưa thích hai trạng thái:
Một là dạy dỗ, chỉ bảo, ban phát lòng thương; 
Hai là chê bai, giễu cợt, phẫn nộ.

Lúc nào cũng đắc thắng, họ luôn tin rằng mình đúng và thế giới cần phải biết tới các phát ngôn của mình. Không trực tiếp làm chết người như đánh trộm chó ở ngoài đời, họ truy lùng và dồn các nạn nhân của mình vào chân tường cho tới khi những người này phải tự tử như cô bé bị lộ video clip, hay phải van xin như cậu thanh niên Hào Anh: “Đừng cho tôi thêm gì nữa. Xin mọi người cho tôi được sống tự nhiên”.

Năm 2012, một nghiên cứu của Đại học Chicago cho thấy việc cưỡng lại thèm khát truy cập mạng xã hội còn khó khăn hơn khước từ thức ăn và tình dục. Sức hấp dẫn của mạng xã hội tới từ chỗ nó cho người ta một không gian để trình diễn. Ai cũng có công chúng.

Câu của Andy Warhol - một họa sĩ Mỹ nổi tiếng về nghệ thuật đại chúng (pop art): “Trong tương lai, mỗi người sẽ nổi tiếng 15 phút” có thể được bổ sung thêm: “Mỗi người sẽ nổi tiếng với 15 người”. Mỗi cái like, chia sẻ, bình luận tán thưởng là thêm một mơn trớn cho cái tôi của người đăng tin, một lần nữa khẳng định giá trị, trí thông minh, sự hóm hỉnh của họ, dù đó chỉ là bức ảnh chụp bát bún thang buổi trưa.

Trên mạng xã hội, mỗi người là một ông bầu của chính mình trong công cuộc xây dựng hình ảnh cá nhân. Chúng ta trở nên kỳ quặc mà không hề biết.

Hãy hình dung cách đây mười năm, trong một buổi họp lớp, một người bỗng nhiên liên tiếp quẳng ảnh con cái, ảnh dã ngoại công ty, ảnh con mèo, ảnh bữa nhậu, ảnh lái ôtô, ảnh hai bàn chân mình, ảnh mình trong buồng tắm, lên bàn - chắc hẳn người đó sẽ nhận được những ánh mắt ái ngại. Trên Facebook, ái kỷ không những được khuyến khích, nó là mục tiêu chính.

Căn bệnh tâm lý mới nhất của xã hội hiện đại là bệnh “sợ bị bỏ lỡ”. Qua một đêm, sau một cuộc họp, thậm chí khi vừa làm tình xong, điều đầu tiên người ta làm là vồ lấy cái điện thoại. Biết đâu vừa có chuyện gì mới xảy ra, ta không thể vắng mặt.

Mà những chuyện như vậy thì vô vàn: học giả thơm hoa hậu, người mẫu ngủ dạng chân, nguyên thủ quốc gia không cài áo vest, các án mạng ly kỳ nối đuôi nhau.

Chiếc điện thoại thông minh đã trở thành một ô cửa nhỏ dẫn người ta thoát khỏi sự buồn chán của bản thân, và cái rung nhẹ báo tin có thông báo mới của nó bao giờ cũng đầy hứa hẹn. Nhưng càng kết nối, càng online thì cái đám đông rộn ràng kia lại càng làm chúng ta cô đơn hơn.

Chỗ này một cái like, chỗ kia một cái mặt cười, khắp nơi là những câu nói cụt lủn, phần lớn các tương tác trên mạng hời hợt và vội vã. Càng bận rộn để giao tiếp nhiều thì chúng ta lại càng không có gì để nói trong mỗi giao tiếp.

Ngược với cảm giác đầy đặn, được bồi đắp khi chúng ta đứng trước thiên nhiên hay một tác phẩm nghệ thuật lớn, trên mạng xã hội ta bị xáo trộn, bứt rứt và ghen tị với cuộc sống của người khác như một kẻ đói khát nhìn một bữa tiệc linh đình qua cửa sổ mà không thể bỏ đi.

Đêm khuya, khi các chấm xanh trên danh sách friend dần tắt, người ta cuộn lên cuộn xuống cái newsfeed để hòng tìm được một status bị bỏ sót, một cứu rỗi kéo dài vài giây, một cái nhìn qua lỗ khóa vào cuộc sống của một người xa lạ để làm tê liệt cảm giác trống rỗng.

BÌNH TÂM Ở ĐỜI THỰC

Mê man với nhau trên mạng, chúng ta đang có nguy cơ đánh mất khả năng kết nối với những cái lớn hơn trong cuộc sống, khả năng cảm nhận thế giới. Thay vì bình tâm ngắm buổi hoàng hôn lộng lẫy, chúng ta điên cuồng tìm những cái lọc khác nhau để chụp mấy chục cái ảnh, rồi bận rộn chọn một cái “đạt” nhất để post lên, băn khoăn nghĩ một lời tựa hấp dẫn.

Thay vì sống trong thế giới thật, người ta bị ám ảnh bởi thế giới ảo. Không có hình tượng nào thể hiện điều này rõ hơn hình ảnh một bà mẹ trẻ vừa cho con bú vừa lướt web. Việc post ảnh đứa bé sơ sinh lên mạng trở nên quan trọng hơn việc ngắm nhìn nó bú mẹ và cảm thấy được kết nối với vũ trụ.

Đứng một mình không dễ. Không những nó có thể làm ta không được ưa thích, khi một mình, nhà văn Đan Mạch Dorthe Nors viết, chúng ta phải đối diện với cảm xúc của ta, quá khứ của ta, cuộc đời của ta, những vấp váp, sai lầm của ta, ta sẽ cảm thấy mình nhỏ bé. Cần lòng dũng cảm để không lẩn tránh chúng. Đổi lại, điều ta nhận được là một sự vững vàng mà không phải bám víu vào sự tung hô của người khác.

Đứng trước bức Mona Lisa ở Bảo tàng Louvre, Paris, tất cả du khách đều nhìn kiệt tác này qua màn hình điện thoại của mình. Dường như họ chỉ có thể trải nghiệm thế giới thông qua một lớp màng điện tử. Cái gì không được ghi vào bộ nhớ điện thoại, cái đó không tồn tại !
Người ta đánh đổi mọi riêng tư thầm kín để chạy theo một quá trình tự trình diễn vô tận, không có thời điểm hạ màn, với mục tiêu tạo tối đa sự chú ý của người khác! 

Ý nghĩa và sự thành công của một ngày nghỉ, của một chuyến đi, rộng hơn là của cả cuộc đời, được đo bởi số lượng like.

Đã tới lúc chúng ta cần tách ra khỏi đám đông, khước từ chuyên chế của nó. Người ta chỉ có thể lắng nghe tiếng nói bên trong mình nếu bỏ được ra ngoài sự ồn ào xung quanh.

Chúng ta cần đứng riêng để tìm ra mình, để bảo vệ tư duy độc lập và nuôi dưỡng ý thức trách nhiệm. Triết gia Soren Kierkegaard coi đám đông là tập hợp những người lẩn tránh sự nhọc nhằn của quá trình phát triển bản thân. Ma lực của đám đông đã được nhắc tới từ rất sớm.

“Không đi theo đám đông để làm điều xấu” là một câu trong Kinh Thánh. Không chỉ đơn giản là “không làm điều xấu”, mà cụ thể là “không đi theo đám đông để thành kẻ chẳng ra gì”.

Trạng thái một mình là cần thiết để phát triển bản sắc và nuôi dưỡng sự sáng tạo.

Ralph Waldo Emerson, nhà thơ lớn của Mỹ thế kỷ 19, viết: “Người gây cảm hứng và dẫn đường cần tách khỏi những người khác, để không phải sống, thở, đọc và viết hằng ngày dưới gông cùm của những ý kiến của họ”.

Một mình không có nghĩa là phải tách khỏi người khác một cách vật lý. Một mình là một quan điểm sống, một trạng thái tinh thần độc lập, nó không được đo bởi khoảng cách vật lý giữa một cá nhân và những người xung quanh.

Các ẩn sĩ hiện đại không cần thiết phải lên núi. Họ vẫn ở trong xã hội, yên lặng, quan sát và tìm hiểu thế giới. Họ tự do trước các con sóng của đám đông để có thể quan tâm tới cộng đồng một cách sâu sắc hơn, đóng góp cho cộng đồng một cách hiểu biết hơn. Vẻ đẹp của người đứng một mình là vẻ đẹp tự tại, với một niềm vui tự thân. Một niềm vui mà như nhà tu hành David Steindl-Rast diễn tả, không phụ thuộc vào những điều đang xảy ra.

BI KỊCH CỦA SỰ HÀO NHOÁNG

Thị trường luôn tái tạo các ngôi sao để thổi gió vào ngọn lửa khao khát tuổi trẻ, sắc đẹp và sự hào nhoáng của đám đông. Và đám đông sẽ vô tư quên họ đi khi họ già, yếu, cô đơn và hết thiêng như những đạo cụ ảo thuật nằm dưới ánh nắng ban ngày.

Những người mẫu, ca sĩ, diễn viên, chân dài, đại gia, tựu trung là những ngôi sao, có thể từng chiếm lĩnh tâm trí nhiều người trong chúng ta nhiều hơn các thành viên trong gia đình ta, dù họ không có nhu cầu giao tiếp với chúng ta. Họ là những “người xa lạ gần gũi”.

Dù không đứng đầu các thể chế chính trị hay kinh tế, các ngôi sao và văn hóa ngôi sao xung quanh họ - bộ máy truyền thông, quảng cáo, thời trang, mỹ phẩm, âm nhạc, điện ảnh - nắm giữ một quyền lực lớn có thể thay hình đổi dạng xã hội.

"Nếu cả thế giới biết tới bạn, dù chỉ như một diễn viên sex, thì cũng vẫn tốt hơn không ai biết tới bạn cả". Marilyn Monroe

Angelina Jolie có khả năng làm người dân toàn cầu chú ý tới nạn đói ở châu Phi hơn nhiều lần tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (mà tên ông ta là gì nhỉ?).

TẠM BIỆT XUẤT THÂN

Văn hóa ngôi sao nói gì với chúng ta về những thay đổi trong xã hội? Dường như nó đang kích hoạt một quá trình dân chủ hóa. Có vẻ như mâu thuẫn, nhưng trong khi chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn thì các khác biệt về giai cấp và xuất thân lại được cào bằng.

Bắt đầu từ thế kỷ 19 ở châu Âu, theo nhà xã hội học Stephen Gundle, phong cách, cái đẹp, thời trang, sự xa xỉ và cả danh tiếng không còn là độc quyền của giới vua chúa và quý tộc nữa. Quá trình này dường như đạt được điểm kết ở cuối thế kỷ 20.

David Beckham là con của một thợ làm đầu và một thợ đóng bếp. Vợ anh, ca sĩ Victoria của Spice Girls, là con của một nhân viên văn thư và một kỹ sư điện. Nhưng đám cưới của họ được tổ chức như một nghi lễ hoàng gia và là một sự kiện toàn cầu.

Ngay sau đó, một tờ báo Anh chạy một biếm họa vẽ David và Victoria đội vương miện, mặc áo choàng lông, vẫy thần dân từ trên bancông một lâu đài, trong khi đó nữ hoàng Anh bé tí đứng ở một góc nói vào điện thoại: “Bảo vệ đâu, chúng ta bị chiếm nhà!”. David Marshall viết: “Các ngôi sao là hiện thân cho sự đắc thắng của đám đông”.

Ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 21, “đẳng cấp” là cái gì có thể mua được, như các quảng cáo cho gỗ lát sàn, rượu và đồ lót vẫn khẳng định. Những ngôi sao vẫn lên báo kể về ngôi nhà lợp tôn mà họ lớn lên trong một xóm nhỏ ở tỉnh lẻ, những công việc như hớt tóc hay làm Promotion Girl thuở còn vô danh.

Lệ Rơi hay Bà Tưng là những đại diện mới nhất của những người “nổi tiếng bình dân” này. Đặc điểm của họ là không nổi tiếng vì đã đạt được những thành tựu nào đó trong khoa học, nghệ thuật hay thể thao, vì dũng cảm trong chiến tranh hay là tấm gương đạo đức trong khủng hoảng xã hội.

​BI KỊCH CỦA SỰ HÀO NHOÁNG CÁM DỖ VÀ LỤI TÀN TRONG KHOẢNH KHẮC

Vì sao các sao hấp dẫn? Họ là màn ảnh để những khán giả nhẹ dạ chiếu lên đó các giấc mơ, các khao khát của mình. Theo Stephen Gundle, sức hút của các ngôi sao tới từ chỗ họ thể hiện những phẩm chất mâu thuẫn: một sự lịch lãm không đứng đắn, một thái độ cao sang gần gũi, một cảm giác elite dân chủ.

Mang trong mình những mâu thuẫn này, họ như một lời hứa cho một xã hội đầy ắp cơ hội, trong đó mọi người sẽ được chuyển hóa thành những phiên bản hay hơn, hấp dẫn hơn, giàu có hơn của chính bản thân mình.

Các ngôi sao khoác trên mình glamour. Từ này không có một khái niệm tiếng Việt tương đương, nó là tổng hợp của hào nhoáng, rực rỡ, lộng lẫy, lôi cuốn và hoành tráng. Với triết lý gỗ không quan trọng, nước sơn quyết định tất cả, nó khơi dậy khao khát.

Hình ảnh của các sao là cầu nối dẫn người ta tới một thế giới long lanh, phiêu lưu, phấn khích và hồi hộp, không buồn chán, bụi bặm và mòn mỏi như cuộc đời thực. Đầu tư tình cảm vào mối quan hệ một chiều với các sao, các fan dường như nhờ họ sống cho mình, sống hộ mình.

Các sao cũng là những “biểu tượng văn hóa”, là loa phát của những trào lưu mới, là địa hạt cũ mới giao tranh. Phát ngôn “Không có tiền thì cạp đất mà ăn” của Ngọc Trinh, cái hôn khóa môi nhà sư của Đàm Vĩnh Hưng, Bà Tưng không mặc áo lót, tất cả là thách thức với những kiến lập cũ, là cố gắng đập vỡ truyền thống và chuẩn mực cũ. Chúng cung cấp chất liệu cho những lời đàm tiếu để nuôi dưỡng quyền lực “văn hóa” của các sao.

Theo Graeme Turner, những câu chuyện “buôn dưa lê” là một quá trình xã hội quan trọng để người ta tranh cãi, đánh giá và thay đổi căn tính, chuẩn mực xã hội. Thông qua chúng, các ngôi sao tác động vào quá trình hình thành bản sắc cá nhân của các thành viên trong đám đông.

Mỗi ngôi sao có hai con người: con người riêng tư và con người công cộng, và giữa chúng thường có một khoảng cách khổng lồ. Bộ mặt công cộng của các ngôi sao không thuộc về họ, mà được cấu thành với sự tham gia của công chúng. Mặt khác, công chúng lại khước từ quyền được là con người riêng tư của các sao, trong khi vẫn tìm tới các chi tiết đời tư của họ như một cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa mình và thần tượng.

Công chúng vô thức hiểu được rằng mình sở hữu các ngôi sao, không có công chúng thì không có sao. Chính vì thế đám đông có thể thất vọng và nổi giận khi phát hiện ngôi sao không sống đúng với kỳ vọng của mình. Trong con mắt các “mẹ bỉm sữa”, Hồ Ngọc Hà đã phản bội. Họ không cho phép cô tụt xuống khỏi cái bệ mà họ đã đặt cô lên.

Danh vọng luôn quyến rũ, như ánh sáng quyến rũ thiêu thân. Nổi danh cho con người ảo giác rằng họ bất tử. “Danh tiếng cầm tù thánh thần và con người”, sử gia Hi Lạp Heraclitus viết. Ba ngày trước khi nghệ sĩ Andy Warhol chết, ông ta còn hỏi tiếp tân để được khẳng định là không có ai nổi tiếng khác đang nằm cùng viện.

Trong cuốn Những kẻ nghiện danh, tác giả Jake Halpern để một diễn viên già đang sống trong một trại dưỡng lão của Hollywood kể lại: “Sự nổi tiếng giống như một người tình. Anh cố gắng bỏ đi, nhưng người tình luôn nói: Hãy quay lại đi, hãy thử một lần nữa. Anh thề thốt sẽ dứt áo ra đi, nhưng sự cám dỗ của người tình luôn ở đó”.

Hơn ai hết, các ngôi sao hiểu rằng họ cũng chỉ là vật tế lễ cho thị trường. Nếu họ được coi là thần thánh thì tôn giáo mà họ đại diện là chủ nghĩa tiêu dùng, và bản thân họ là những mặt hàng có hạn sử dụng. Giống như sao băng, họ tàn lụi cũng nhanh chóng như khi lên ngôi.

Ngọc Trinh thể hiện bi kịch này rõ nhất qua tâm sự: “Tôi chỉ sợ mình xấu đi”. Thị trường luôn tái tạo các ngôi sao để thổi gió vào ngọn lửa khao khát tuổi trẻ, sắc đẹp và sự hào nhoáng của đám đông. Và đám đông sẽ vô tư quên họ đi khi họ già, yếu, cô đơn và hết thiêng như những đạo cụ ảo thuật nằm dưới ánh nắng ban ngày.

​Sự khốn cùng của “tư duy triệu phú”

Cuộc sống khó khăn và rối ren, bạn cần một lời khuyên, nhưng từ đâu? Với nhiều người, giải pháp gần nhất là đi mua một cuốn “self-help”. Khái niệm sách “self help” rất rộng, nhưng thường được hiểu là loại sách dạy tu thân, học làm người, chứa đầy lời khuyên thông tuệ và các “bí kíp” để nhanh giàu, nhanh khôn, nhanh thành công...

Đổ bộ vào Việt Nam sau thời kỳ mở cửa, sách self-help - hay được gọi là sách tu thân, tự lực, tự giúp - vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ, nhưng người đến với nó như nước chảy vào vùng xoáy. Dòng sách này đã trở thành nồi cơm, chỗ dựa của nhiều nhà xuất bản.

THỜI CỦA CÁC "BÍ KÍP" CHO KHÔNG

Bước vào một hiệu sách, bạn sẽ thấy chừng một phần ba diện tích kệ sách, thường là khu vực gần cửa nhất, được dành cho thể loại này. Hai mảng bán chạy nhất hiện nay là học làm giàu và phát triển bản thân thường đi kèm với nhau: thay đổi bản thân để thịnh vượng. Nhiều năm qua, những cuốn như Dạy con làm giàu, Cha giàu cha nghèo, Đọc vị bất kỳ ai, Chiến thắng con quỷ bên trong bản thân, Tôi tài giỏi, bạn cũng thế hay Sức mạnh của tư duy tích cực luôn nằm trong nhóm sách bán chạy nhất ở Việt Nam.

Gần đây, thậm chí ông Đặng Lê Nguyên Vũ, chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên, còn cho phát không hàng chục triệu cuốn Nghĩ giàu, làm giàu của Napoleon Hill và Đắc nhân tâm của Dale Carnergie cho thanh niên cả nước. Hai cuốn kinh điển này nằm trong một danh sách được ông Vũ gọi bằng cái tên cũng rất self-help là “Tủ sách đổi đời”.

Lý do gì khiến nhiều người đón nhận thể loại sách này nhiệt tình tới như vậy?

Như đã thể hiện qua chữ “đổi đời” của ông Vũ, loại sách này đem lại hi vọng. Bỏ ra vài chục nghìn đồng, người mua sách self-help sở hữu những giấc mơ ngọt ngào. Tuần làm việc 4 giờ hứa có thể giúp bạn “làm việc ít đi 20 lần nhưng thu nhập tăng lên 10 lần”, và khuyên “thuê một trợ lý cách xa nửa vòng trái đất để cô này viết một lá thư ngọt ngào xoa dịu người vợ đang giận dữ của bạn”. Nghĩ giàu, làm giàu không yêu cầu bạn lao động vất vả hay có tài năng, chỉ cần bạn rất, rất mong muốn trở nên giàu có. Cái đó thì không khó.

Trên trang mạng Học làm giàu, một thanh niên đặt ra mục tiêu “Sau năm thứ nhất có 20 triệu đồng, sau năm thứ năm có 1 triệu USD, sau năm thứ mười có 1 tỉ USD”. Các thành viên khác ngưỡng mộ: “Việt Nam mình có nhiều người có hùng tâm như anh thì ước mơ dân giàu, nước mạnh không phải quá xa vời. Chúc anh thành công!”.

Đằng sau những ảo tưởng làm giàu kiểu mì ăn liền kia là những dịch chuyển xã hội và thay đổi cơ bản trong triết lý sống của người Việt. Trước hết, hai thập kỷ qua đã tạo ra huyền thoại Từ cậu bé nhà quê thành đại gia mà ông Đặng Lê Nguyên Vũ là một ví dụ.

Nếu như trước kia nhiều người cho rằng giàu nghèo có số và vị trí của mình trong xã hội đã được xếp đặt sẵn thì ngày nay, chứng kiến của cải nảy nở xung quanh mình, họ chuyển sang thái cực kia và tin vào một triết lý lạc quan là bạn hoàn toàn có thể điều khiển được tiền tài và danh vọng của mình nếu nắm được một số “kỹ thuật” nhất định: 23 nguyên tắc của Carnegie, 13 bước của Hill, 8 bài học từ Cha giàu, cha nghèo của Robert Kiyosaki.

Cuộc đời, vốn được quan niệm là bất định, nay được cho là được quản trị bởi một số “bí mật” mà rất may đã được một số tác giả phát hiện và truyền đạt lại, dễ hiểu hơn bản cửu chương.

Thứ nữa, mô hình lao động cùng tập thể, cá nhân dựa vào cộng đồng trong cuộc sống nông nghiệp không còn thích hợp cho một môi trường kinh tế thị trường đầy cạnh tranh. Thay cho một hệ thống hài hòa, vạn vật đều có chỗ đứng của mình, cuộc đời nay được hiểu như một mê cung, một cuộc đua, một rừng rậm, những biểu tượng hay được dùng trong các sách self-help phương Tây.

Trong môi trường này, người ta luôn phải cập nhật các kỹ năng và tái tạo bản thân để mạnh hơn đối thủ, các sách dạy phát triển bản thân đánh vào nỗi lo âu thường trực này. “Cần phải sẵn sàng để ứng phó với những thay đổi, nếu không mỗi người sẽ tự hủy hoại cơ hội tồn tại của mình”, cuốn Ai lấy miếng phó mát của tôi cảnh báo và bán được 26 triệu bản trên toàn cầu.

SÁCH ĐẸP NÓI DỐI

​ Rất đáng tiếc, đưa sách dạy làm giàu và kỹ năng sống như những cuốn trên cho thanh niên, hay bất cứ ai cũng vậy, là gửi họ và cộng đồng vào con đường cụt bởi những tác động tiêu cực của chúng.

Vấn đề đầu tiên là triết lý của phong trào self-help hiện đại, được đặt nền móng bởi Dale Carnegie với Đắc nhân tâm, là “mỗi người vì chính mình”. “Phát triển bản thân” luôn là một dự án vì mục đích cá nhân, không có chỗ cho những vấn đề của cộng đồng và hoạt động xã hội.

Trong thế giới quan đó, con người là một động vật ích kỷ và nông cạn. Họ thích được nghe tới tên mình, muốn được tỏ ra quan trọng và thèm khát sự khen ngợi. Thay vì làm cho con người tốt đẹp lên, Carnegie đánh vào bản năng vị kỷ của họ và khuyên người ta lợi dụng nó. Con người chỉ là những loại cá khác nhau, và bí mật để đạt được thành công là “học được cách móc mồi vào lưỡi câu phù hợp với từng loại cá”.

Nhiều nguyên tắc của Đắc nhân tâm phục vụ cho những con người giả tạo, cơ hội và thao túng. Trong cuốn sách, một đại tư bản tự hào vì ông có thể gọi nhiều công nhân của mình bằng tên riêng nên “chưa hề có một cuộc đình công nào xảy ra tại các nhà máy thép của ông”. Ở đây có một ẩn ý xã hội sâu xa hơn: thay vì phải xây nhiều nhà vệ sinh hơn cho các nữ công nhân dệt may, các ông chủ hãy cố học thuộc tên riêng của họ và thế là mọi chuyện đều ổn thỏa cả.

Nếu như trước kia giá trị sống của người Việt là trở thành người quân tử, ưu việt về đạo đức và vững vàng về luân lý thì ngày nay với nhiều người, mục tiêu đơn thuần chỉ là tạo ra một bộ mặt khả ái, bởi như Carnegie giải thích, thành công “được định nghĩa phần lớn qua việc người khác nhìn bạn như thế nào”.

“Với Carnegie - Steven Watts, tác giả cuốn tiểu sử về ông, viết - trọng tâm dịch chuyển từ việc xây dựng những giá trị đạo đức bên trong mỗi người sang xây dựng những ấn tượng mà người ta gây cho người khác”. Carnegie nói về “thương hiệu bản thân” trước khi chữ này tồn tại. Nhà văn Sinclair Lewis phê phán Carnegie đã thay thế những chữ niềm tin, danh dự, cao thượng trong những cuốn sách học làm người trước kia bằng chữ giàu có. Ông đánh đồng sự đẹp đẽ của tính cách con người với khả năng kiếm tiền.

Và như vậy, thách thức của cuộc đời không còn là việc đi tìm một ý nghĩa sống trong cộng đồng của mình nữa mà là giám sát và quản lý bản thân để trở nên giàu có. Cho rằng không khi nào là quá sớm, một số nhà trẻ nhanh nhạy ở Việt Nam tổ chức những khóa học “Dạy trẻ kỹ năng lãnh đạo bản thân từ những năm đầu đời”. Viễn cảnh ở đây là những đứa trẻ sớm điều khiển được người khác và theo dõi hiệu quả của bản thân như của một cỗ máy.

LẢNG TRÁNH HIỆN THỰC

Bên cạnh tham vọng “đọc vị” người khác, “tư duy tích cực” là một trụ cột cơ bản khác của văn hóa self-help, và như tác giả Barbara Ehrenreich lập luận trong cuốn Sự quảng bá triền miên tư duy tích cực đã làm xói mòn nước Mỹ như thế nào, nó đang gặm nhấm nền tảng xã hội.

Ở đây “tư duy tích cực” không liên quan gì tới một thái độ sống lạc quan. Nó là một kiểu niềm tin, có thể gọi là mù quáng, là người ta có thể dùng ý nghĩ để điều khiển những gì xảy ra với bản thân. Bạn muốn giàu? Bạn phải thật sự, luôn luôn và sắt đá tin mình sẽ giàu. Vì thế mà các nhà trẻ nói trên cho lũ trẻ mẫu giáo hằng ngày lặp lại các câu như: “Tôi là một thần đồng trong lớp học” và “Tôi đang trên con đường tạo ra sự giàu có tuyệt vời”.

Cuốn Nghĩ giàu, làm giàu yêu cầu bạn viết số tài sản mình muốn có lên một tờ giấy và đọc to nó lên ngày hai lần vào buổi sáng và buổi tối. Cần làm như vậy vì tiền bạc “tuy không nói năng được nhưng có thể nghe thấy khi ai đó khao khát gọi tên nó” - tác giả đoan chắc. T. Harv Eker, tác giả Những bí mật của tư duy triệu phú, hướng dẫn bạn đọc “cài đặt” tư duy của người giàu bằng cách đặt tay lên tim và nói: “Tôi là một người đón nhận tuyệt vời. Tôi sẵn sàng và rộng mở đón nhận những lượng tiền khổng lồ đến với cuộc đời tôi”. Sau đó cần chạm lên đầu mình và nói: “Tôi có tư duy triệu phú”.

Đằng sau “tư duy tích cực” này kia là quan điểm nguy hiểm rằng bản thân mỗi người, giàu có hay bần hàn, hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình, và đó là lý do hoàn hảo nhất để người giàu tự tán dương mình và phủi tay chối bỏ trách nhiệm xã hội. Gần đây người ta tâm đắc với câu “35 tuổi mà còn nghèo, đấy là tại bạn”. Thông điệp ở đây là gì? Nghèo đói không thuộc về trách nhiệm của quyền lực - họ vô can. Người nghèo nghèo vì họ không có “tư duy triệu phú”.

Quan điểm này bỏ ra ngoài những bất bình đẳng trong xuất thân, trong tiếp cận giáo dục và y tế. Nó không đặt câu hỏi về những bất công trong xã hội, không bàn tới công lý lẫn thể chế, nó không có khái niệm những nhóm người dễ tổn thương. Nó bỏ qua đúc kết dân gian “con sãi ở chùa lại quét lá đa”.

Tệ hơn, tư duy này làm những người nghèo bên lề xã hội cuối cùng quay ra tự trách cứ bản thân, thay vì phê phán các tương quan và chính sách xã hội đẩy họ vào trạng thái này. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “tư duy tích cực” được dùng như một công cụ kiểm soát xã hội. Barbara Ehrenreich dẫn ra rằng khi các tập đoàn Mỹ sa thải hàng loạt nhân viên vào thập niên 1980 cũng là lúc họ thuê nhiều nhất các diễn giả về “tư duy tích cực” tới để xoa dịu những người bị đuổi việc và để những nhân viên chưa bị đuổi tiếp tục lao vào cày cuốc.

Và cuối cùng, “tư duy triệu phú” kiểu “tự kỷ ám thị” đó cổ xúy sự dịch chuyển của các giá trị đạo đức. Nếu như trước kia người ta tôn vinh các cá nhân theo đuổi một cái nghiệp, cống hiến, say mê, thì bây giờ sự say mê duy nhất được ngưỡng mộ là say mê làm giàu. Và sự giàu có mới nổi cần một biện minh về đạo đức để được chấp nhận và tôn trọng.

Trên nền tảng đạo đức mới này, giàu có nghĩa là thành công, với Napoleon Hill thì nó còn “không cần lời xin lỗi”. Làm giàu không những đã trở thành đích sống, mà còn là một đức hạnh, “làm giàu là vinh quang”. Hệ quả là gì? Trong khi tôn vinh người giàu, người ta rất dễ đi đến kết luận thứ hai rằng người nghèo làm xấu hổ đất nước, là gánh nặng của cộng đồng. Napoleon Hill viết: “Chúa đứng bên những người quyết tâm làm giàu”.

Đáng ngạc nhiên là chưa một ai thắc mắc nếu hàng triệu cuốn sách dạy “tư duy tích cực” và làm giàu có hiệu quả thì GDP quốc gia hằng năm đã phải tăng như thế nào rồi. Nhưng các ý tưởng self-help không khuyến khích các câu hỏi, chúng chỉ yêu cầu người đọc tin vào chúng. Nếu bạn chưa giàu thì có nghĩa là bạn chưa tin đủ, bạn cần mua thêm sách, nghe thêm băng, tới dự thêm các buổi thuyết trình.

Theo Salerno - tác giả cuốn Phong trào tự lực đã làm nước Mỹ trở nên bất lực như thế nào, cứ chừng 18 tháng người đọc self-help lại mua một cuốn sách mới. Sự khốn cùng của kiểu “tư duy triệu phú” này là ở chỗ nó làm tê liệt khả năng tư duy độc lập, phản biện và ý thức xã hội, những điều đang thiếu ở Việt Nam. Nó không dẫn tới khai sáng và minh triết. Đám đông đi theo nó vừa phỉnh nịnh vừa giẫm đạp lên nhau để đạt được mục đích của mình, tin tưởng rằng chính nghĩa và đạo đức thuộc về kẻ giàu có.



Bảy bước đi của căm ghét

TTCT - Có điểm gì chung giữa Lê Thị Đông Phương và Nguyễn Lê Thiên Lý - hai bảo mẫu bị tuyên án tù giam vì hành hạ trẻ em, Nhâm Tiến Dũng và Nhâm Thị Hồng Phương - hai anh em bị bắt ở Thụy Sĩ vì đã ăn cắp kính, ca sĩ Hồ Ngọc Hà, dịch giả Dương Tường và nữ sinh T. 15 tuổi khi em tự tử? Họ đều đã là tâm điểm của những cơn bão mạng, là đối tượng của làm nhục công cộng ở mức độ khổng lồ.

Đằng sau sự phục hưng đáng kinh ngạc của hiện tượng làm nhục công cộng này là những chuyển động tâm lý và xã hội gì? Tác giả Đặng Hoàng Giang - người cũng từng đi qua những cơn bão căm ghét - đi tìm câu trả lời trong loạt bài về hình hài và tâm lý của căm ghét, độc địa và tàn nhẫn.

Tôi tự hỏi vì sao mình lại băn khoăn về câu chuyện của những người này - những người rõ ràng rất khác với bạn bè của tôi? Vì sao tôi không đưa họ ra khỏi đầu được, mặc dù có người đã ngồi tù hai năm nay?

Tại sao, khi mà câu chuyện của những người này dường như xảy ra ở một nơi xa xôi, tôi và họ quá khác nhau, chúng tôi ở trong những thế giới không liên quan gì tới nhau?

Một hôm khi đọc lại những thông tin về họ, bỗng nhiên tôi hiểu ra: mặc dù không muốn nhớ lại, tôi từng ở vị trí của họ. Tôi từng là họ, đã trải qua những gì họ trải qua, đã bị làm nhục công cộng như họ, tuy ở một mức độ khác. Tôi bắt đầu một hành trình cá nhân để cố gắng lý giải, lý giải hành vi và tâm lý của những người làm nhục, lý giải những cảm xúc mà người bị làm nhục trải qua. Và lý giải sự độc ác trong xã hội.

Đầu tháng 3-2014, tôi trả lời phỏng vấn của một phóng viên báo Lao Động. Câu chuyện xoay quanh câu hỏi vì sao tôi lại chuyển về Việt Nam sống sau nhiều năm định cư yên ổn ở Áo, cái gì hấp dẫn tôi ở Việt Nam, quan điểm của tôi về xã hội phương Tây như thế nào và cái nhìn của tôi về khao khát hướng ngoại của người Việt ra sao.

Tôi tâm sự rằng mình rời bỏ phương Tây vì sự máy móc và lạnh lùng của nó, rằng Việt Nam thú vị nhưng cũng bất an vì cái bất ngờ và khó đoán định trong cuộc sống ở đây, rằng tôi trở về vì có khả năng thử nghiệm bản thân ở nhiều lĩnh vực.

Tôi cho rằng nhiều phụ huynh Việt trong khi mơ ước cho con đi du học, thờ phụng cái “văn minh” của phương Tây thì mặt khác vẫn mắc kẹt trong tư duy cổ hủ của phương Đông về bằng cấp và địa vị xã hội. Giấc mơ về phương Tây của người Việt, do đó, là một giấc mơ hời hợt - đó là luận điểm chính của tôi.

Bài phỏng vấn lên trang mạng của Lao Động cuối ngày 15-3, chạy cái tít khiêu khích: “Phương Tây - một giấc mơ hời hợt”. Tối hôm đó, tôi chia sẻ bài này trên Facebook của mình. Hồi đó tôi không có nhiều bạn Facebook. 24 tiếng sau, bài có vài chục like, một số người, cả lạ lẫn quen, vào bình luận, đồng tình hoặc phản đối. Một người đang làm cho một công ty tin học ở Mỹ viết: “Anh Giang nhận xét và đánh giá về xã hội Tây sai hết cả rồi”. Một người khác cho rằng: “Cuối cùng thì vẫn tùy vào mục đích sống là gì thôi mà”. Tất cả không có gì lạ so với các bài khác của tôi.

Ngày 16-3, bài phỏng vấn bắt đầu lan ra trên mạng. Phương Đông hay phương Tây, ra nước ngoài sống hay ở trong nước, về Việt Nam lập nghiệp hay ở lại cho yên ổn, cái gì hơn, chỗ nào làm ta hạnh phúc, đó là những câu hỏi cơ bản, những quyết định khó khăn của nhiều người. Trăm người trăm ý.

Tôi có thể mường tượng ra điều đó. Điều cả tôi và chị phóng viên không hình dung được là cách người ta bảo vệ ý kiến của mình và những cảm xúc đi kèm của họ. 24 tiếng nữa - có lẽ đó là khoảng thời gian để bài báo đến tay cộng đồng người Việt ở nước ngoài, để họ đi làm về, ăn tối, lên mạng - một cơn bão nổ ra.

Tối 17-3, trong lúc ăn tối, tôi nhận được tin nhắn của một người bạn, rào đón: “Anh bình tĩnh nhé, đừng để ý gì tới bọn họ”. “Ai? - tôi hỏi - Có chuyện gì vậy?”. Trong đầu tôi điểm danh nhanh xem mình có thể là kẻ thù của ai, nhưng không tìm ra được cái tên nào.

Người bạn gửi cho tôi cái link của một trang Facebook. Nhấn vào đó, tôi được chuyển tới một diễn đàn nóng rừng rực với hàng trăm bình luận về bài phỏng vấn của tôi. Tôi đọc vài cái ở khúc đầu.

“Suy nghĩ của tay no cơm, thừa sữa lại thèm chút cơm cháy đáy nồi đây mà”.

“Lại một thằng cha “chiết da” quốc doanh nữa”.

Một người tỏ ra thông thạo về quá khứ của tôi:

“Ông này học ở Ilmelnau thuộc Cộng hòa dân chủ Đức trước đây, chất lượng thế nào thì cộng đồng người Việt ở Đức không lạ! Và loanh quanh bằng cách nào sang Áo lấy bằng tiến sĩ, rồi lại về Việt Nam thì cũng là trường hợp có một không hai”.

Một ý kiến hóm hỉnh khác: “Ông này không phải là Việt kiều tại Áo, mà đang định cư ở đâu đó dưới áo một chút”.

Mặt tôi nóng bừng. Phản ứng đầu tiên của tôi là bỏ ra chỗ khác, đúng hơn là để cái điện thoại sang một bên, ngoài tầm nhìn. Đó là phản xạ chạy trốn, che mặt, muốn độn thổ - các hành vi đặc trưng của người bị làm nhục được các nhà tâm lý học mô tả trong sách chuyên môn của họ mà sau này tôi mới tìm hiểu. Tôi quay lại với bữa tối.

Một lát sau, một người quen khác gắn (tag) tôi vào cái thread đó: “Anh Giang vào đây tham gia này”. Có cảm giác là mình phải nói một cái gì đó, tôi viết lại: “Anh vẫn đang lắng nghe mọi người đây”. Từ đó điện thoại của tôi cứ rung bần bật với các tin báo.

Tôi cố gắng không thay đổi sắc mặt và tiếp tục chuyện trò với hai con, nhưng gặp khó khăn để tập trung. Tôi thấy mình như vừa bị tát nhiều cái, cả hai mắt tôi phải hơi nheo lại để nhìn cho rõ. Choáng váng, hoa mắt, sau này tôi mới biết cũng là những cảm giác đặc trưng mà người bị làm nhục cảm thấy. Sau bữa tối, tôi vào lại Facebook.

Tất nhiên, lúc này những người tham gia trên trang kia đều đã nhìn thấy tên tôi được gắn ở đây, đã đọc câu trả lời của tôi và biết là tôi đọc được những gì họ viết. Có lẽ chính điều đó làm họ phấn khích hơn: “Đây là một tiến sĩ thất nghiệp ở phương Tây và không có cơ hội tiếp xúc với một gia đình tử tế ở đó”.

“Bằng tiến sĩ của anh ấy cũng học mót của các giáo sư phương Tây. Đọc bài anh ấy biết là anh ấy học mót nhưng cũng hiểu sai: học mót cũng cần nói đúng sự thật”.

“Nói chung dạng bị thiến sót nên thành thần kinh cố lảm nhảm ra chiều “phản biện” để che giấu một sự thật (có thể phũ phàng) nào đó khiến anh ku từ Áo phải bùng mịa nó về An Nam thôi, khổ!” (1 câu dài ko cần dấu ngắt câu, nhá, viết thế mềnh đã đủ chuẩn lấy tiến sĩ chưa nhở?)”.

Lác đác, có người bày tỏ sự đồng tình với tôi: “Là một người lao công không biết lý luận, không thạo chữ nghĩa nhưng tôi thấy cách đặt vấn đề, cách nghĩ của ông, lựa chọn của ông về Việt Nam, những cảm nhận của ông về Việt Nam đều làm tôi cảm nhận và chia sẻ”.

Tôi băn khoăn không biết mình có nên like ý kiến này không hoặc trả lời một câu kiểu: “Cảm ơn bác lao công”. Tôi không rõ người ta sẽ phản ứng thế nào khi tôi lên tiếng. Trong lúc tôi lưỡng lự thì bác lao công chìm nghỉm trong làn sóng công kích mới: “Không biết cậu này bị hiếp dâm hay làm đĩ đực thì chỉ cậu ta mới biết!”.

Tần ngần một giây, tôi cuộn lại lên trên đầu trang, bản thân cũng không biết vì sao. Có lẽ tôi thầm hi vọng rằng những lời lăng nhục kia đã biến mất, tất cả là do tôi hình dung ra. Tất nhiên chúng vẫn ở đó, chúng có thật. Tôi tắt điện thoại.

Lúc này tôi mới để ý là mình đang trong trạng thái bị kích động, tim đập nhanh và hơi thở ngắn. Tôi có cảm giác mình bị dồn vào một góc. Tôi thấy mình không có nhu cầu ra khỏi nhà và suy nghĩ xem có nên hủy cuộc gặp tôi đã hẹn cho sáng hôm sau không.

Tôi để cái điện thoại cách xa mình mà cảm thấy nó sáng như một cục than hồng và lại có mắt theo dõi các cử chỉ của tôi.

Đêm hôm đó không ngủ được, tôi hình dung ra một đám đông trên mạng đang đắc thắng vui cười, thi xem ai làm nhục giỏi hơn, ai miệt thị cay độc hơn. Một người bước lên trước liệng một hòn đá, đám đông reo hò. Người tiếp theo bước lên liệng hòn đá khác.

Họ quay ra đập tay high five với nhau như khi chơi bowling đánh đổ hết cả 10 pin bằng quả bóng đầu tiên. Tôi hình dung ra họ đang thấy bản thân mạnh mẽ; họ đang là chính nghĩa, cái thiện, cái tốt đẹp; họ đang đè bẹp cái xấu xa và ngu dốt.

Nếu như lúc này tôi đang đối mặt với họ trong một căn phòng, biết đâu tôi chẳng bị họ hất bia vào người, chỉ tay vào mặt, rồi vỗ tay xuống đùi cười ầm lên chế giễu. Nếu tôi ở cùng thành phố với họ, biết đâu họ sẽ liệng mắm tôm vào sân nhà tôi.

Họ có thể đến trường đại học của tôi ở Vienna, vào thư viện, lấy trên giá sách xuống luận án tiến sĩ của tôi và nguệch ngoạc lên trang nhất “Học mót”, hay “Tiến sĩ - Thiến sót”. Đại loại thế.

Sáng hôm sau, miệng khô, tôi cầm cái điện thoại lên, cố gắng kéo dài tới mức có thể mấy cái gõ ngón tay để vào Facebook rồi nhìn trân trân vào màn hình đang tải, giống một đứa bé theo dõi động tác của một bác sĩ đang chuẩn bị lấy máu của nó.

Qua một đêm, sự giận dữ và độc địa khó mà độc đáo được nữa, các bình luận có phần lặp đi lặp lại. Chỉ có câu này nổi bật lên: “Nói gì cho ngắn mà dễ hiểu nhỉ? Thôi thế này: Nếu chẳng may bạn có hệ trọng gì ngã đường ngã chợ thì vẫn hi vọng Chính phủ Áo chắc chắn cấp tiền chôn cất chu đáo, không phải lo đâu!”. Cách hành văn không trôi chảy và có lỗi dùng từ, nhưng tôi đồng ý là câu này vừa ngắn vừa dễ hiểu.

Cơn bão sôi sục trong những ngày tiếp theo. Có hai luồng khinh bỉ và buộc tội song song hình thành. Hoặc họ nói tôi “ở bên kia thất nghiệp không sống được nữa nên mới phải về Việt Nam”, hoặc “ở bên kia đầy đủ bơ sữa rồi nên mới về Việt Nam”.

Tất nhiên, nếu tôi vẫn đang định cư ở bên kia thì lại càng chết với họ. Tóm lại là không có lối thoát. Khoảng một tuần sau thì tình hình yên ắng trở lại. Đám đông trên mạng dạt đi chỗ khác, lùng sục các nạn nhân tiếp theo của mình.

Tôi tưởng rằng hòa bình đã trở lại với mình, nhưng Internet như một cái biển lớn, những làn sóng ngầm của nó thi thoảng lại đưa lên bề mặt những thứ nằm sâu trong lòng nó.

Tới đầu tháng 12-2015, tức là nửa năm sau khi tôi kinh ngạc chứng kiến cư dân mạng “hành quyết” hai anh em Nhâm Tiến Dũng và Nhâm Thị Hồng Phương sau chuyến du lịch châu Âu của họ, vì một lý do gì đó, bài phỏng vấn của tôi lại xuất hiện và mọi chuyện lại như mới. Lần này, bài đã được chia sẻ tới hơn 8.400 lần.

Tôi vào một diễn đàn - nơi vốn chủ yếu để trao đổi về công nghệ, phần mềm đồ họa, linh kiện máy tính... Nhưng ngay cả ở đây, “phương Tây hời hợt” cũng đang hot. Bình luận đầu tiên trong cái thread dài 12 trang là:

“Tại sao mày không về hở thằng tiến sĩ kia?”.

Cái kế tiếp:

“TS chém gió ơi, về xứ Lừa bụi bặm, xảo trá này đi, ở mãi với bọn giẫy chết làm gì, lại còn đăng đàn phê phán nữa, đèo mẹ, khắm”.

Rồi mấy cái khác ăn theo: “Mời tiến sĩ về VN sống để đổi cho em qua Áo nhé”.

“ĐM nằm phơi chim bên EU rồi thích nói kiểu éo gì chả được”.



Hơi băn khoăn, tôi tìm đọc lại bài phỏng vấn xem trí nhớ của mình còn chính xác không. Và đây, câu hỏi đầu tiên của phóng viên, ngay ở đầu trang là: “Ông đã có một cuộc sống có thể nói là giấc mơ với rất nhiều người tại một quốc gia phát triển hàng đầu châu Âu. Vì sao ông quyết định về nước?”.

Có vẻ như một khi người ta đã quyết tâm làm nhục một ai thì khó có gì có thể làm lung lay ý định đó. Tôi cuộn xuống dưới và thấy có người phản pháo, “bảo vệ” tôi.

“Vâng, ít nhất ông ấy cũng giỏi để có thể kiếm đc cái quốc tịch nước ngoài, để có cái mà chém gió, còn cái loại cả đời ko thoát đc lũy tre làng thì câm họng lại mà lo kiếm tiền đi”.

Rõ rồi, người “bênh tôi” cũng dùng ngôn ngữ lăng nhục y như của những người kia. Tôi tắt điện thoại và không biết mình nên cười hay nên mếu.

Đi tìm tâm của cơn bão căm ghét

Tôi hình dung rằng một trong những lý do để người ta cứ khư khư bám vào nỗi căm ghét của mình là họ cảm thấy rằng nếu họ dừng căm ghét, họ sẽ phải đối mặt với nỗi đau

James Baldwin

Tôi đã hai lần đi qua cơn bão căm ghét, mặc dù cơn sau là một cơn bão rớt. Chỉ lúc này tôi mới thấm thía được rằng cái khái niệm tiếng Anh “hate storm” mới phù hợp làm sao. Những cơn bão này hình thành như thế nào?

Cái đám đông của những người căm ghét tôi đã định hình và lớn mạnh ra sao? Họ trải qua những trạng thái tâm lý gì? Liệu người ta có thể phân tích những cơn bão căm ghét trên mạng giống như các nhà khí tượng học phân tích các cơn bão thật sự không? Chúng có quy luật không?

Tôi bắt tay vào tìm hiểu quá trình hình thành và nảy nở của sự căm ghét. Dường như các nghiên cứu của John Schafer và Joe Navarro cung cấp cho tôi một câu trả lời, một cánh cửa để hiểu những người tấn công mình.

John Schafer và Joe Navarro là hai cựu nhân viên và điệp viên của Cục Điều tra liên bang Hoa Kỳ (FBI) và là chuyên gia trong các lĩnh vực ngôn ngữ cơ thể, phát hiện dối trá trong giao tiếp và tâm bệnh lý của căm ghét.

Họ đã dành nhiều năm nghiên cứu về những người căm ghét và tiến trình tâm lý của thù ghét, đặc biệt trong giới đầu trọc ở California. Dựa vào những quan sát từ những nhóm đầu trọc này, năm 2003 Schafer và Navarro đề xuất rằng từ khởi đầu tới đỉnh điểm, một quá trình căm ghét trọn vẹn đi qua bảy bước.

Ở bước một, những người căm ghét tụ tập lại. Người ta không muốn ghét một mình, họ thuyết phục, chiêu mộ người khác căm ghét cùng. Có bạn có bè làm tăng cảm giác về giá trị của bản thân và giúp họ tránh nhìn vào nội tâm để thấy những bất an của mình. Hội đoàn đem lại cảm giác về sức mạnh, nó che chở, đem lại sự vô danh và giảm thiểu trách nhiệm bản thân của mỗi người.

Bước hai, nhóm căm ghét tạo lập một bản sắc. Họ dùng các biểu tượng, nghi lễ và huyền thoại để xây dựng vị thế và hạ thấp người bị ghét. Các nhóm đầu trọc thích dùng dấu chữ thập, cây thánh giá sắt và đi ủng nhà binh.

Họ dùng những hành vi mang tính nghi lễ như những cái đập tay, động tác chào... để tăng cảm giác gắn bó trong nhóm. Họ nhấn mạnh rằng mình hi sinh sự dễ chịu trong cuộc sống để phục vụ mục đích của nhóm, coi mình như những người lính hiến dâng cuộc sống của mình, qua đó trao cho nó ý nghĩa và giá trị.

Căm ghét là keo dính kết nối các thành viên của nhóm cũng như kết nối họ với mục tiêu chung.

Ở bước ba, họ giễu cợt, phỉ báng đối tượng, qua đó củng cố hình ảnh và chỗ đứng của bản thân. Các nhóm đầu trọc dùng các bài hát và bài văn thù hận (hate literature) để tạo ra một môi trường giúp căm ghét nảy nở. Những ý nghĩ hung hăng làm người ta dễ hình dung ra các hành vi hung hăng hơn.

Bước bốn khác ở mức độ lăng nhục và thóa mạ đối tượng. Nếu căm ghét nguội đi, những người ghét sẽ phải nhìn vào bản thân. Để tránh chuyện này, họ nâng mức độ sỉ nhục và công kích lên một bậc. Những thanh niên đầu trọc bắt đầu xịt graffiti miệt thị ở khu dân cư của đối tượng bị ghét, đi ôtô lòng vòng, chửi rủa từ xa.

Ở bước năm, họ tấn công nhưng không dùng vũ khí. Đây là một bước quan trọng vì nó phân hóa những kẻ võ mồm và những kẻ xắn tay áo lên dùng bạo lực. Những kẻ đầu trọc trở nên hung hãn, họ đi tuần trong lãnh thổ của mình để tìm mục tiêu.

Hưng phấn, chất adrenaline tràn đầy trong người, họ đi tìm cảm xúc mạnh. Căm hận tưới tắm căm hận.

Sang bước sáu, nhóm căm ghét tấn công bằng vũ khí. Những kẻ đầu trọc thích sử dụng chai lọ vỡ, gậy bóng chày hay tuôcnơvit để tấn công. Những vũ khí này bắt họ phải tiến sát vào nạn nhân, mắt đối mắt, tay dính máu.

Bạo lực liền tay, ở cự ly gần, cho phép họ thể hiện sự căm hận sâu sắc của mình ở cách mà súng không cho phép. Va chạm cơ thể với đối phương đem lại cảm giác quyền lực và thỏa mãn một mong mỏi sâu sắc áp đảo và chế ngự nó.

Cuối cùng, ở bước bảy, đối tượng của căm ghét bị phá hủy. Quyết định được số phận của người khác, những người căm ghét cảm thấy quyền năng và sức mạnh như Chúa trời, điều này thúc đẩy họ đi tới những hành vi bạo lực tiếp theo. Cảm giác quyền lực này lấp đầy sự trống rỗng bên trong họ, cho họ cảm giác về giá trị bản thân.

Ở bốn bước đầu tiên, người căm ghét thể hiện niềm tin của mình qua ngôn ngữ. Ở ba bước tiếp theo, người căm ghét hành động. Do vậy ngôn ngữ bạo lực là điều kiện cần, là xuất phát điểm cho bạo lực vật lý, đặt tiền đề cho nó.

Và một điều nữa: trên thực tế, John Schafer và Joe Navarro kết luận, trên cả bình diện tâm lý và vật lý, sự căm ghét phá hủy cả người ghét lẫn người bị ghét. Nhưng chúng ta sẽ trở lại điều này sau.

Kiểm chứng lý thuyết căm ghét trong đời thực

Tiến trình căm ghét bảy bước của John Schafer và Joe Navarro không chỉ giải thích những gì xảy ra trong giới đầu trọc. Người ta có thể quan sát nó ở nhiều môi trường và tập thể khác nhau: ở học đường, trong cơ quan, thậm chí trong một dòng họ.

Hai tác giả đưa ra một ví dụ trong môi trường văn phòng. Tất cả bắt đầu bằng việc một vài nhân viên ghét một đồng nghiệp và bắt đầu đi tìm đồng minh, rỉ tai người khác rằng anh đồng nghiệp kia là khó ưa (bước một).

Họ bắt đầu xác lập một bản sắc riêng thông qua ký hiệu, ngôn ngữ hay hành vi: một cái cười đầy ngụ ý chỉ người trong cuộc hiểu, một mật mã để loại người bị ghét ra khỏi bữa trưa chung, các hành vi khác để cô lập anh ta.

Có thể họ tạo một cái tên riêng cho nhóm (bước hai). Ở thời điểm này, họ mỉa mai đối tượng bị ghét bên trong nội bộ nhóm mình (bước ba), rồi tiến tới trực tiếp hay gián tiếp lăng mạ đối tượng, cố tình để đối tượng nghe thấy những lời thóa mạ (bước bốn).

Một buổi sáng, người nhân viên kia thấy bàn làm việc của mình bị xáo trộn và tấm ảnh gia đình trên bàn bị dán đè lên (bước năm). Đây là bước bạo lực đầu tiên. Ở bước tiếp theo (bước sáu), những người căm ghét phá đám công việc của đối tượng, hạ thấp uy tín của anh ta bằng nói xấu và tin đồn. Với thời gian, môi trường làm việc trở nên nghẹt thở với nhân viên này, anh ta bị phá hủy (bước bảy).

Ở ngoài đời thì như vậy, còn trên mạng thì sao? Liệu một “phong trào” căm ghét trên mạng có đi theo những bước trên? Tôi muốn kiểm chứng. Và tôi đã có ngay một sự kiện, một cơn siêu bão, để theo dõi tiến trình của nó như John Schafer và Joe Navarro đã vẽ ra: những lùm xùm xảy ra xung quanh người mẫu - ca sĩ Hồ Ngọc Hà mới đây. Tôi đã có dịp kiểm chứng lý thuyết “Bảy bước đi của căm ghét”, tuy quả thật những điều trông thấy khiến tôi kinh hãi













Để từ thiện không chỉ... câu Like

Nếu từ thiện chỉ là phong trào, để lấy Like, để xoa dịu lương tâm, để cầu may, để đánh bóng tên tuổi, để thể hiện vị thế xã hội, thì người cho đã tự khước từ khả năng nhận. Lúc đó, từ thiện đánh mất chức năng là chất gắn kết của một cộng đồng. Ngược lại, nó chỉ củng cố các bất công trong xã hội.

Trước hết, chúng ta nên bắt đầu bằng cách đặt tâm điểm của sự chú ý vào người nhận, chứ không phải vào người làm từ thiện, những ngôi sao hay người mẫu. Chúng ta nên bắt đầu bằng sự tôn trọng những người nhận sự giúp đỡ của chúng ta, nhìn họ là những con người độc lập, có lịch sử, có số phận, có câu chuyện riêng. Sự giúp đỡ ở mức cao nhất, Maimonides, triết gia Do Thái ở thế kỷ 12 đã viết, là sự giúp đỡ mà qua đó người nhận vẫn giữ được lòng tự trọng và nhân phẩm của mình.

Chúng ta cũng cần suy nghĩ xem hành động của mình, dụng ý thì tốt, nhưng có thể gây tác hại gì không. Cái làng ở Mộc Châu kia, nếu như tuần nào, thậm chí ngày nào, cũng có một vài nhóm du khách vào đưa cho họ chăn và mì ăn liền, thì chẳng mấy chốc toàn bộ cấu trúc xã hội của làng sẽ sụp đổ, và tôi sẽ không lạ khi dân làng bắt đầu bán đồ được cho để mua rượu uống.

Nếu từ thiện chỉ là phong trào, để lấy like, để xoa dịu lương tâm, để cầu may, để đánh bóng tên tuổi, để thể hiện vị thế xã hội, thì người cho đã tự khước từ khả năng nhận.

Trong một bài báo năm 2012, Al Jazeera dẫn ra những tác hại của du lịch thăm trẻ mồ côi, một lĩnh vực đang được người phương Tây rất ưa chuộng, qua trường hợp ở Campuchia. Trẻ mồ côi bị ảnh hưởng tâm lý vì mỗi tuần chúng lại phải cắt đứt quan hệ tình cảm với một nhóm tình nguyện viên mà chúng vừa quen, và xây dựng quan hệ với một nhóm mới.

Trong nhiều trường hợp, những người quản lý trại lợi dụng lũ trẻ để trục lợi mà khách viếng thăm, do cưỡi ngựa xem hoa, không thể biết được. Câu chuyện này hẳn không xa lạ với người Việt. Ở Bali, làn sóng khách du lịch tới cho tiền các trại mồ côi đã khuyến khích các gia đình đẩy con mình vào trại, biến một gia đình lành lặn thành một gia đình què quặt.

Chúng ta cũng nên bắt đầu bằng những câu hỏi đúng. Thay vì hỏi "Cháu đã có kẹo chưa?" du khách Sapa ở bên trên nên hỏi: "Tại sao cháu lại đứng ở đây mà không tới trường?". Nên quan tâm một cách tổng thể tới hoàn cảnh của người cần giúp đỡ, bối cảnh địa phương của họ và các yếu tố tác động đằng sau. Vì sao họ nghèo? Vì họ không có đường ra chợ, vì họ bị trung gian thu mua nông sản bắt chẹt, vì lũ cuốn đất màu do rừng bị tàn phá, vì họ thiếu vốn lẫn thiếu kỹ năng quản lý vốn?

Tiếp theo, chúng ta có thể nghĩ xem nên hướng nguồn lực của mình vào đâu để đem lại lợi ích lớn nhất cho những người hoặc cộng đồng cần trợ giúp. Đôi khi, cái mà một bản nghèo cần cho cuộc sống và nhân phẩm của mình không phải là lại thêm hàng chục thùng mỳ ăn liền hay những cái chăn nữa, mà là một cái cầu treo, hay cơ hội để bán hàng của mình ở thị trấn. Tất nhiên, để tìm ra được những điều này cần tâm trí và sự quan tâm thực sự và lâu bền, không chỉ một cảm xúc mùi mẫn kéo dài 20 phút khi người ta chụp selfie trước những ngôi nhà dột nát.

Hoạt động từ thiện có thể chữa phần ngọn: quyên tiền cho một ca mổ tim, đem lại ánh sáng cho người khiếm thị, bảo trợ cho một sinh viên nghèo học đại học. Những hoạt động này thực sự thay đổi cuộc đời, thậm chí cứu mạng sống.

Quan trọng hơn, các hoạt động nhân đạo và từ thiện rất cần tập trung thay đổi phần gốc, đó là các tương quan xã hội tạo ra đói nghèo, bóc lột và bất công. Hội chứng “Người cứu tinh da trắng” có vấn đề bởi nó không liên quan gì tới công lý, nó chỉ là một trải nghiệm tình cảm để người ta tái khẳng định sự may mắn và đặc lợi của mình.

Trong trường hợp này, từ thiện trở thành một cử chỉ phô ra sự thương hại và sức mạnh của người giàu, bởi họ không quan tâm tới hoàn cảnh xã hội, và qua đó từ chối thay đổi nó để giải quyết bất công. “Sự hào phóng của người làm từ thiện sẽ đóng băng nếu như quyền lực của anh ta bị thách thức,” nhà thần học người Mỹ Reinhold Niebuhr viết, “hoặc nếu sự hào phóng này không được tiếp nhận với sự nhẫn nhục mà anh ta đòi hỏi.”

Trong một xã hội hiện đại với các tương quan phức tạp như hiện nay, trách nhiệm của một công dân có ý thức không chỉ là “lá lành đùm lá rách", mà còn phải là cố gắng hiểu những tương quan đó, tự vấn về trách nhiệm cá nhân mình trong các lựa chọn làm ăn, kinh doanh, mua sắm, tiêu thụ, và đặt câu hỏi mình có thể đóng góp được gì để thay đổi vấn đề, hoặc ít nhất không làm nó trầm trọng hơn.

Trong hoạt động nhân đạo và từ thiện, tiền chỉ là một trong các nguồn tài nguyên, thậm chí không phải là nguồn quan trọng nhất. Quan trọng hơn là kiến thức, tài năng, và sức ảnh hưởng của các cá nhân muốn giúp đỡ đồng bào của mình.

Báo chí, thay vì tập trung vào chuyện người nổi tiếng mặc gì khi phát quà, hãy để họ lên tiếng và lôi kéo sự chú ý của công chúng tới những vấn đề thuộc về phần gốc: nông dân bị mất kế sinh nhai, công nhân ở những khu công nghiệp vật lộn với cuộc sống, môi trường bị huỷ hoại, phân hoá giầu nghèo, bạo lực trong gia đình.

Thay vì chỉ đóng tiền cứu trợ khi có bão lũ, hay nhân tiện mang quần áo cũ lên vùng cao nhân dịp đi chụp ảnh hoa ban, hãy tìm hiểu công việc của những tổ chức phi chính phủ và hỗ trợ họ. Những tổ chức này đang bền bỉ hoạt động để bảo vệ quyền của trẻ em, để phụ nữ không bị buôn bán, người thiểu số giữ được văn hoá bản địa, người khuyết tật không bị kỳ thị, chính quyền địa phương trở nên minh bạch hơn, và người dân có tiếng nói hơn.

Làm việc với họ tuy không cho ra những bức ảnh bắt mắt như khi ta chụp với trẻ em miền núi, nhưng nó sẽ đi xa hơn rất nhiều những phản xạ rút ví vào những lúc chúng ta "rủ lòng thương.” Cuối cùng, chúng ta nên từ bỏ tâm thế của người ban phát. Từ thiện là một quá trình hai chiều, cho và nhận. Mỗi người, dù nghèo tới đâu, cũng có cái để cho người khác, và mỗi người, dù đầy đủ tới đâu, cũng cần mở rộng mình để nhận.Nếu từ thiện chỉ là phong trào, để lấy like, để xoa dịu lương tâm, để cầu may, để đánh bóng tên tuổi, để thể hiện vị thế xã hội, thì người cho đã tự khước từ khả năng nhận. Lúc đó, từ thiện đánh mất chức năng là chất gắn kết của một cộng đồng. Ngược lại, nó chỉ củng cố các bất công trong xã hội.

Hết người nghèo, chắc giới showbiz sẽ... rất buồn

Lúc thì hoa hậu này “hát múa với người nghèo”, lúc thì người mẫu kia “giản dị cùng người yêu đi trao quà Tết”, rồi thì ca sĩ nọ “cùng vợ thăm bệnh nhân mổ tim ngay sau sinh nhật”. Người nghèo ở đây chỉ là cái cớ.

Hãy hình dung các khách du lịch nước ngoài đứng ở các ngã tư Hà Nội, hoặc đi dọc các phố cổ, trong tay là một xếp những tờ 10 USD, vừa đi vừa phát tiền cho bất kỳ đứa trẻ nào mà họ gặp, mỗi đứa một tờ, hết đứa này tới đứa khác. Chỉ đơn giản vì họ “yêu quý” chúng và muốn chia sẻ tiền của họ cho những trẻ em mà họ cho là kém may mắn hơn.

Bạn sẽ thấy khó chịu, đúng không? Bạn có cho phép con mình nhận tiền khi họ đi ngang qua? Có cái gì đấy không ổn, thậm chí lăng mạ, ở đây.

Nhưng đây là điều mà nhiều người vẫn làm khi họ tới những nơi nghèo khổ hơn. Đầu năm vừa rồi tôi chứng kiến khá nhiều du khách ở Sapa xuống các bản lân cận, người thì khoác một bịch ny long kẹo to tướng, người thì cầm một xếp các tờ 2000 đồng. Họ luôn tay phân phát kẹo và tiền cho trẻ em dân tộc, mồ hôi lấm tấm trên trán. Lũ trẻ hoặc là đứng thành hàng ven đường, hoặc là chen chúc nhau trước mặt khách, bụng phồng tướng lên vì đã nhét đầy kẹo của những người đi trước vào bên trong áo. “Cháu bao nhiêu tuổi rồi,” họ hỏi ngọt ngào, “13 à, sao bé thế, đây nhé…”, rồi quay sang đứa bên cạnh, ”Còn cháu đã có kẹo chưa?…” Bên cạnh là một người cùng đoàn, bấm iPhone lia lịa, rồi nhanh chóng up lên Facebook.

Có thể là vô thức, nhưng trong những trường hợp như thế này, người ta làm “từ thiện” không phải vì người nghèo, mà vì chính bản thân mình.

Ở cổng làng người ta đã dán các khuyến cáo đề nghị du khách không cho trẻ kẹo và tiền, vì chúng sẽ bỏ học để đứng ngoài đường đón khách, tự biến bản thân thành ăn mày. Nhưng nhiều du khách bỏ ngoài tai lời khuyên này. Có lẽ sức hấp dẫn của việc chỉ bỏ ra mấy có mấy chục nghìn mà được tắm mình trong cảm giác mãn nguyện với bản thân, nhìn thấy mình đang phân phát lòng tốt cho người khác, là quá lớn.

Tâm lý này được thể hiện rõ nhất khi báo chí đưa tin về những người nổi tiếng đi làm từ thiện. Lúc thì hoa hậu này “vô tư hát múa với người nghèo”, lúc thì người mẫu kia “giản dị cùng người yêu đi trao quà Tết”, rồi thì ca sĩ nọ “cùng vợ thăm bệnh nhân mổ tim ngay sau sinh nhật”. Người nghèo ở đây chỉ là cái cớ, những vai quần chúng, không ai quan tâm tới họ hết, cả người viết lẫn người đọc báo. Cái họ quan tâm là người nổi tiếng mặc gì, đi giày ra sao, đi cạnh ai.

Tôi cho rằng Việt Nam mà không có người nghèo nữa thì các ngôi sao và hoa hậu sẽ rất buồn. Họ không còn cớ gì để có thể thể hiện “lòng tốt” của mình nữa.

Một hiện tượng đang nổi nữa là du lịch kết hợp từ thiện. Một công ty du lịch mô tả chương trình Mộc Châu, Sơn La của mình như sau: “sau khi chụp ảnh với các cánh đồng hoa đào, hoa mận, quý khách tản bộ vào các bản làng để tặng những món quà do nhân viên của công ty đã chuẩn bị sẵn", và sau đó trên đường về thì “dừng lại mua đặc sản măng chua, bánh sữa."

Đại diện một công ty du lịch khác cho biết: "Các chương trình đưa thêm vào gói tour khá đơn giản, tiện lợi, không làm mất thời gian của hành trình mà ngược lại góp phần làm phong phú thêm lịch trình nên khách hàng rất hài lòng."

Không có một lời nào nói đến người nghèo, họ không có danh tính, không có bộ mặt. Tất cả xoay quanh nhu cầu của khách du lịch. "Không mất thời gian", "phong phú lịch trình”, cuộc viếng thăm tặng quà người nghèo trở thành một "đặc sản" của chuyến đi như măng chua, bánh sữa, một "giá trị gia tăng" và "lợi thế cạnh tranh" của sản phẩm mà công ty du lịch đưa ra.

Trong trường hợp này, từ thiện chỉ là một dạng khác của tiêu dùng. Quan trọng là có thể bỏ tiền ra “xem tận mắt" cái nghèo và mua lương tâm sạch sẽ một cách tiện lợi, tiết kiệm thời gian và với chi phí vừa phải. Tôi cam đoan là trong khi các du khách chất vấn tour guide rất kỹ xem buổi trưa ăn món gì, thì sẽ ít người có nhu cầu đặt câu hỏi về nội dung của những gói quà mà công ty đã chuẩn bị sẵn.

Gần đây, loại hình du lịch này tăng trưởng 30 - 40% một năm. Theo website của Tổng cục Du lịch, trước kia các chương trình này "thường chỉ đưa vào tour dành cho khách nước ngoài cao cấp, nhưng nay bắt đầu trở thành xu hướng mới của các tour nội địa."

Điều mà Tổng cục Du lịch vô tình đề cập tới qua câu nói trên là tâm lý từ thiện để (vô thức hay có ý thức) ngưỡng mộ bản thân và khẳng định cái ưu việt của mình không phải chỉ có ở người Việt trung lưu. Ở Phương Tây người ta dùng khái niệm châm biếm “Người cứu tinh da trắng" (White savior) để chỉ những người phương Tây tới những nước nghèo hơn để "giúp đỡ", nhưng không hiểu gì về bối cảnh xã hội, kinh tế, chính trị của nước đó.

Nhà văn người Mỹ Teju Cole viết về hiện tượng này: “một kẻ vô danh ở Mỹ hay châu Âu có thể tới châu Phi và trở thành một vị cứu tinh như Chúa trời.” Teju Cole buộc tội là châu Phi chỉ là cái “studio” để người da trắng trình diễn các tưởng tượng lãng mạn của mình với vai người hùng và thoả mãn cái tôi của mình.

Trên mạng có vô số những bức ảnh chụp những thanh niên nam nữ phương Tây, tóc vàng, mắt xanh, vây xung quanh bởi tụi trẻ Phi châu, tất cả cười rạng rỡ. Họ là voluntourist, một tourist kiêm volunteer (tình nguyện viên). Họ tới một làng nào đó, đá bóng với lũ trẻ, hút cần sa, ghi chép vào một cuốn sổ giấy đen, và hài lòng với bản thân.

Trang Pacific Standards nhận xét rằng một trong những lý do chính để thanh niên da trắng trở thành tình nguyện viên ở thế giới thứ ba là để chụp selfie với trẻ con bản xứ, và lòng ái kỷ (yêu chính bản thân mình) là động cơ thúc đẩy chính của phong trào du lịch thiện nguyện toàn cầu này.

Tờ báo trào phúng “The Onion" đăng tin “Cuộc viếng thăm 6 ngày tại một làng châu Phi đã thay đổi hoàn toàn avatar Facebook của một cô gái”, và để "nhân vật" này kể lại: “Ngay khi tôi bước chân tới cái làng bụi bậm, hẻo lánh đó, và nhìn thấy lũ trẻ tươi cười chạy tới, tôi đã biết là avatar của mình sẽ thay đổi vĩnh viễn.”

Đây là những dạng khác nhau của cái mà tôi gọi chung là “từ thiện lấy like”.

Như vậy làm từ thiện như thế nào cho đúng?



Đằng sau phút chặc lưỡi với ma lực



Ai chưa từng chặc lưỡi cùng cơ quan đi ăn thịt thú rừng, mặc dù bản thân thấy việc đó không được đúng lắm? Hay trong cơn sốt đất dẫn nhau đi mua một miếng ruộng ở tít tắp chỗ nào đó, để rồi sau đó tự sỉ vả bản thân?



Những vụ việc liên quan tới hành vi của đám đông gần đây gây ra không ít bức xúc và phê phán trong dư luận. Các nhà bình luận, rồi đông đảo bạn đọc báo lắc đầu chê trách cái hung hãn và sự vô văn hoá của "xã hội", rồi tổng quát hoá lên bổ sung chúng vào danh sách những tính xấu của người Việt nói chung.



Những cái lắc đầu phê phán không có ý nghĩa nhiều nếu ta không hiểu tâm lý và những yếu tố chi phối hành vi của đám đông. Như tôi đã phân tích trong bài "Những 'hổ báo' dũng mãnh trong đám đông".



Ma lực của đám đông đã được nhắc tới từ rất sớm. "Không đi theo đám đông để làm điều xấu" là một câu trong Kinh Thánh. Không chỉ đơn giản là "Không làm điều xấu", mà cụ thể và chính xác là "Không đi theo đám đông để làm điều xấu".



Đám đông hấp dẫn khó cưỡng lại, tới mức người ta có thể tự nguyện phủ nhận sự thật để đi theo nó. Trong một loạt các thí nghiệm nổi tiếng của Solomon Asch cách đây 60 năm, người tham gia thí nghiệm ngồi cùng với một số người khác (thực chất là những người đồng mưu với Asch).



Đám đông, ma lực, độc lập, ảnh hưởng

Đám đông hấp dẫn khó cưỡng lại, tới mức người ta có thể tự nguyện phủ nhận sự thật để đi theo nó.

Mọi người trong nhóm được yêu cầu so sánh độ dài của một số đường thẳng trên hai tờ giấy - một bài tập sơ đẳng ở mức trẻ con. Tuy nhiên, nếu những người đồng mưu nhất loạt cùng chọn một câu trả lời rõ ràng là sai, thì trong tới 30% trường hợp, người tham gia thí nghiệm sẽ từ bỏ đánh giá cá nhân của mình để vào hùa với đám đông.

Chúng ta là nạn nhân của đám đông nhiều hơn là chúng ta tưởng. Ai có thể tự tin cho rằng mình luôn giữ được độc lập và chưa từng bị đám đông làm nghiêng ngả?

Ai chưa từng chậc lưỡi cùng cơ quan đi ăn thịt thú rừng, mặc dù bản thân thấy việc đó không được đúng lắm? Hay trong cơn sốt đất dẫn nhau đi mua một miếng ruộng ở tít tắp chỗ nào đó, để rồi sau đó tự sỉ vả bản thân? Về bản chất, việc này không khác việc chen nhau để ăn một miếng sushi phát không là mấy.



Vậy làm sao có thể chống cự được sự cám dỗ của đám đông? Làm sao để giữ tỉnh táo?



Trong một văn hoá tập thể vốn hay nghi ngờ và tìm cách triệt tiêu sự cá biệt như văn hoá Việt Nam, đây là một điều khó, và còn khó hơn nữa trong những thời điểm đặc biệt như Tết Nguyên Đán, khi áp lực thống nhất trong hành vi tạo ra bởi đám đông lên tới đỉnh điểm. Tôi muốn đưa ra ba kỹ thuật "giữ mình" để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.



Nâng sức kháng cự



Bức ảnh một nữ lính Mỹ tay cầm một sợi dây da buộc vào cổ một tù nhân Ả Rập đang trần truồng nằm dưới đất như đang dắt chó đã trở nên nổi tiếng thế giới. Quân lính và sĩ quan Mỹ tra tấn, ngược đãi, hãm hiếp và làm nhục các tù nhân ở nhà tù Abu Ghraib ở Baghdad, và mọi người đều hoặc làm theo hoặc im lặng, cho tới khi ba người lính lên tiếng tố cáo. Vì sao ba người này lại có hành động khác với đám đông?



Theo các nhà tâm lý học, sự kiềm chế nội tại giúp người ta giữ được quan điểm của mình kể cả khi nó xung đột với đám đông xung quanh. Những cá nhân có "điểm kiểm soát" (locus of control) nằm ở bên trong là những người có khả năng kháng cự cao hơn, những người làm chủ được hành động và cuộc sống của họ.



Ở cực bên kia là những người có điểm kiểm soát nằm ở bên ngoài. Những người này dễ bị ảnh hưởng, và họ cũng sẵn sàng phó thác bản thân cho người khác. Đi kèm, họ cũng luôn đổ lỗi cho bên ngoài cho những vấn đề của mình. Những người này có xu hướng chấp thuận cao vì họ cho rằng một ai đó khác đang chịu trách nhiệm về tình hình.



Cũng như với những khả năng khác, khả năng kiềm chế bản thân và kháng cự đám đông được phát triển thông qua quá trình rèn luyện, từ những tình huống đơn giản, vô hại, tới những tình huống phức tạp, đòi hỏi những quyết định khó khăn. Bắt đầu từ quyết định có nên cùng bạn bè đi ăn thịt thú rừng hay không, cho tới quyết định có tố giác một đường dây chia chác bất hợp pháp trong cơ quan.



Tìm đồng minh



Điểm thú vị là sức hút của đám đông giảm đi rất nhiều nếu như ta có, dù là rất ít, đồng minh. Trong thí ngiệm của Asch, tỉ lệ người tham gia vẫn vững vàng giữ nguyên ý kiến đúng của mình cao hơn rất nhiều nếu như trong nhóm còn lại có một người, chỉ cần một người thôi, tách ra và đưa ra một ý kiến khác đám đông, kể cả khi ý kiến của người này cũng sai. Đồng minh đem lại tự tin, tỉnh táo, và giúp người ta yên tâm với sự khác biệt của mình chứ không từ bỏ nó.

Suy luận thêm một bước nữa: trong một đám đông, hẳn cũng có người đang tìm một ai đó làm đồng minh, để họ dũng cảm và tự tin hơn. Đồng minh đó có thể là ta?



Đứng riêng một mình



Một trong những cách rèn luyện khả năng kháng cự là tách ra khỏi đám đông một cách có ý thức để đứng một mình. Một mình không có nghĩa là cô đơn. Cô đơn là một trống vắng, cách biệt, chia cắt; người ta có thể cô đơn ngay khi ở trong một đám đông và đó là sự cô đơn đáng sợ nhất. Một mình là đồng hành với bản thân, lắng nghe và tìm hiểu chính mình.



Trong đám đông người ta có nguy cơ đánh mất bản thân, còn một mình đem lại tự do và không gian để phát triển bản sắc và nuôi dưỡng sự sáng tạo mà không bị rối trí và can thiệp. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng những thanh thiếu niên không có khả năng chịu đựng được trạng thái một mình cũng không phát triển được các khả năng sáng tạo của họ.



Theo triết gia Soren Kierkegaard, đám đông là tập hợp của những người lẩn tránh sự nhọc nhằn của quá trình phát triển bản thân.



Ngày nay, sự lẩn tránh dễ dàng hơn bao giờ hết, khi đám đông của Internet, của Facebook chỉ cách chúng ta đúng một cái gõ ngón tay nhẹ. Ý thức được vẻ đẹp của việc đứng một mình là bước đầu tiên giúp ta tách ra khỏi đám đông để đi vào con đường nhọc nhằn nhưng cần thiết này.



Những 'hổ báo' dũng mãnh trong đám đông



Khác với lúc đứng riêng rẽ một mình, cái vô danh trong đám đông đem lại cho người ta một sự an toàn và cảm giác được bảo vệ nhất định.



Nào những người dân bình thường hiền lành, thân ái với nhau, lại trong tích tắc trở nên khác hẳn, hăm hở lao vào núi bia đổ, lễ mễ khuân ra mấy bịch, rồi háo hức quay lại làm đợt nữa. Điều gì đã xảy ra?



Điều gì làm cho một số thanh niên, đang đi chơi với bạn gái, bỗng hăng lên lao vào "đánh hôi" kẻ trộm chó như đi trẩy hội?



Lý do gì làm những người công dân xây dựng hàng ngày chăm chỉ mang cơm đi làm, bỗng trở nên hung hãn và đập phá chính ngay công việc đem lại miếng cơm manh áo cho họ?



Sẽ hời hợt nếu chỉ đưa ra những bình luận chung chung về sự xuống cấp của xã hội, về niềm tin bị đánh mất, về người Việt thiếu văn hoá.v.v...



Để hiểu được những hiện tượng này và truy tìm nguyên nhân, chúng ta cần nhìn sâu hơn vào tâm lý đám đông và xem họ vận hành.



Đám đông là... vô danh



Một đám đông có những yếu tố đặc biệt.



Thứ nhất, trong đám đông, các thành viên của nó vô danh. Khác với lúc đứng riêng rẽ, cái vô danh trong đám đông đem lại cho người ta sự an toàn và cảm giác được bảo vệ nhất định.



Thứ hai, đám đông gây phấn khích. Những người đã từng ở trong một sân vận động khổng lồ đều biết cảm giác đó khác với cảm giác khi xem trận bóng trước màn hình TV. Số đông cộng hưởng và tạo ra một năng lượng đặc biệt, sự hưng phấn có sức lây lan lớn. Lúc đó, cô gái nhút nhát nhất cũng có thể văng tục ngon ơ và cho ngón tay vào mồm, cùng huýt sáo la ó trọng tài.

Và cuối cùng, đám đông rùng rùng chuyển động và trăm người như một cùng làm một hành vi nào đấy, khi họ được một sự kiện bất ngờ châm ngòi.Ảnh VTC

Đám đông cũng đem lại cho các cá nhân trong nó cảm giác về quyền lực. Trong đám đông, những người vốn thấp cổ bé họng bỗng có cảm giác mình mạnh mẽ. Chúng ta hẳn còn nhớ một người đàn ông Đồng Nai vừa bê bia vừa trừng mắt quát người tài xế xe tải: "Báo công an đi, ông thách đấy!"



"Không có gì nguy hiểm hơn là xây dựng một xã hội mà trong đó một nhóm lớn có cảm giác là họ không được can dự, rằng họ không có gì để mất. Nếu người ta có quyền lợi trong xã hội, người ta sẽ bảo vệ xã hội, nhưng nếu không, họ sẽ vô thức muốn phá huỷ nó."



Và cuối cùng, đám đông rùng rùng chuyển động và trăm người như một cùng làm một hành vi nào đấy, khi họ được một sự kiện bất ngờ châm ngòi.



Giả sử như trăm thùng bia xếp ngay ngắn ven đường, thì kể cả chỉ có một người trông coi thôi, chắc cũng không ai nghĩ tới chuyện xông vào lấy. Bia đổ tung toé ra đường tạo ra một tình huống lạ, một điều bất thường, và sự kết hợp của sự vô danh, phấn chấn lây lan, cảm giác quyền lực và an toàn, làm giảm đáng kể ý thức trách nhiệm của mỗi người về hành vi của mình, biến một bà mẹ mẫu mực thành một người hớn hở gom bia mặc dù trong nhà không có ai uống, để tới lúc tỉnh cơn say mới hối hận về hành động của mình.



Trong đám đông, con người dễ đánh mất bản thân.



Nhưng, chen chúc lượm bia hay bẻ mấy cành hoa trong một hội chợ vẫn khác xa với việc xông vào đánh tới chết một kẻ trộm chó, hay châm lửa đốt rụi hàng chục xe máy. Điều gì khiến đám đông trở thành sức mạnh phá huỷ - nhiều khi phá chính môi trường sống của họ?



Nguyên cớ có vẻ gần giống như chuyện các CĐV bóng đá ở Anh bỗng nhiên hỗn chiến và giật tung ghế của sân vận động, hay xa hơn là làn sóng đập phá và hôi của ở London năm 2011 làm toàn thế giới kinh ngạc, lý do của 6 ngày bạo lực và cướp bóc ở Los Angeles năm 1992 làm 53 người tử vong.



Đám đông ngoài lề?



Có một điểm chung ở tất cả các sự kiện nói trên, đó là, tất cả đều là đám đông những người ngoài lề, những người thấp bé trong xã hội, thu nhập thấp hoặc thất nghiệp, và không có cơ hội.



Họ mang sẵn trong mình sự cáu kỉnh và chán nản. Họ bực bội với bản thân, với cuộc đời, với những thứ xung quanh. Khi họ nhập vào một đám đông, như Gustave Le Bon nhận xét trong Tâm lý học đám đông, họ đánh mất tính cá nhân, tính độc lập, khả năng đánh giá và phán xét đạo đức. Họ bị cuốn vào ảnh hưởng phi lý của xung quanh.



Đám đông có thể làm những việc mà mỗi cá nhân, nếu đứng riêng biệt, sẽ không bao giờ nghĩ là họ có thể làm. Chỉ cần một sự kiện nhỏ xảy ra...



Do đó, đám đông có thể làm những hành động phá huỷ và bạo lực mà mỗi cá nhân, nếu đứng riêng biệt, sẽ không bao giờ nghĩ là họ có thể làm. Ảnh VTC

Ở khía cạnh tâm lý, đó thực chất là cảm giá bất lực, đứng ngoài lề, không làm chủ cuộc đời mình. Họ thấy họ như những kẻ lạ trên chính mảnh đất của mình, bị bỏ rơi. Họ thấy họ kém cỏi, vô giá trị. Vì thế, họ dễ dàng ngấm cái say của một đám đông nổi loạn...



Ít nhất, trong khoảnh khắc đó, họ có cảm giác mình là người thắng, người mạnh, rằng cuộc sống thú vị, sôi động, làm họ quên đi cái mòn mỏi hàng ngày. Đám đông cho họ một bản sắc, cho họ một nơi để thuộc về.



Đám đông "mới" của ngày nay khác đám đông "cũ" năm xưa. Đám đông cũ, qua quá trình được "vận động" tham gia cách mạng, đã phát triển cho mình một nhận thức.



Còn ngày nay?



Những công nhân và người nghèo bây giờ đơn giản bị kẹt trong cái bẫy nghèo. Những người, mà như Oscar Lewis đã định nghĩa trong Văn hoá của nghèo khổ năm 1998, "có rất ít ý thức về lịch sử. Họ là những người bên lề, chỉ biết tới những vật lộn của bản thân, chỉ biết được hoàn cảnh của địa phương họ, thế giới hẹp của họ, cách sống riêng của họ. Thông thường, họ không có kiến thức, tầm nhìn hay ý thức hệ để nhận ra những điểm tương đồng giữa những vấn đề của họ và vấn đề của những người giống họ trên thế giới. Nói một cách khác, họ không có ý thức giai cấp, mặc dù họ rất nhạy cảm với sự phân biệt về đẳng cấp".



Phải kinh ngạc để nói rằng, những đám đông nổi loạn bây giờ không có quan điểm xã hội hay thông điệp chính trị gì. Những công nhân đập phá ở Samsung không đưa ra một đòi hỏi cụ thể gì cho doanh nghiệp hay công đoàn; những người dân đánh trộm chó không có yêu cầu gì với công an hay chính quyền.



Chính vì vậy, sự hung hãn bùng phát thường bất ngờ với các nhà bình luận xã hội và các nhà chức trách, lúc đó họ mới bối rối đi tìm lý do và lời giải thích.



Lời giải thích đơn giản nhất có lẽ đến từ Martin Luther King: "Không có gì nguy hiểm hơn là xây dựng một xã hội mà trong đó một nhóm lớn có cảm giác là họ không được can dự, rằng họ không có gì để mất. Nếu người ta có quyền lợi trong xã hội, người ta sẽ bảo vệ xã hội, nhưng nếu không, họ sẽ vô thức muốn phá huỷ nó."



Một xã hội ổn định là xã hội không chỉ dành cho các nhóm lợi ích; những nhóm lớn cũng phải được tiếp cận một phần tử tế của miếng bánh, một cảm giác xã hội là của họ, phục vụ họ thực sự chứ không phải chỉ trên các khẩu hiệu và văn kiện.











THÁCH THỨC CỦA MỘT QUÁ TRÌNH HỌC HỎI



Mỗi đất nước, dân tộc, văn hóa, thậm chí mỗi cá nhân là một vũ trụ phức tạp. Thách thức trong quá trình học hỏi là nhận biết được sự phức tạp, những xung đột, những chấn thương, những năng lượng... của một quốc gia, của một nền văn hóa.



Sự trì trệ kinh tế trong năm năm qua có lẽ đã làm tổn hại tới lòng tự tin của người Việt. Cái hào hứng, hồ hởi, phấn khởi của thời kỳ 2007-2008 đã nhường chỗ cho trạng thái bi quan, bực bội và cáu bẳn, người ta đổ lỗi cho những người xung quanh.

Một cộng đồng người Việt nào đó hiện ra trên báo chí và mạng xã hội như một tập thể lười biếng, ngày ngày chỉ lượn từ quán trà chanh sang hàng bia hơi, sau đó thì hoặc là đi bắt trộm chó, hoặc gia nhập đám đông đánh trộm chó một cách phấn khích man rợ và chỉ dừng lại khi thấy một xe tải chở bia bị đổ ra đường. Rồi người ta bảo: Văn hóa thì đã “xuống cấp”, và đạo đức hoàn toàn “băng hoại”.



BỜ BÊN KIA MỚI SÁNG



Với não trạng này, khá dễ hiểu khi thấy có những người Việt hướng tới một số dân tộc khác như những ngọn đèn hải đăng trên biển cả mịt mù, mong tìm ra được một cuốn cẩm nang hướng dẫn tỉ mỉ phải sống như thế nào.

Ba dân tộc được nhắc tới nhiều nhất, với lòng ngưỡng mộ và khâm phục là Mỹ, Nhật và Do Thái. Không ngày nào trôi qua mà không gặp một bài báo, một trạng thái trên Facebook ca ngợi sự ưu việt của những nền văn hóa kia, và những căn dặn tỉ mỉ để noi theo.

Người ta chuyền tay nhau các bài viết chê cười tủ rượu của người Việt và ngợi khen tủ sách của người Do Thái, và còn cho biết thêm phụ huynh Do Thái “xây dựng thói quen đọc sách cho trẻ nhỏ từ khi còn trong nôi”, và “để sách hấp dẫn trẻ, họ thường nhỏ nước hoa lên sách để tạo mùi hương cho các em chú ý” (Tôi tự hỏi liệu bước tiếp theo sẽ là rắc nước hoa vào bát bột để trẻ hết biếng ăn?).

Một loạt bài viết khác cũng khá được ưa thích chỉ ra sự khác nhau trong hành xử ở phòng chờ sân bay giữa người phương Tây ưu tú và người Việt ít học. Chúng khiển trách người Việt không thể rời mắt khỏi màn hình điện thoại, trong khi đó “người phương Tây dành thời gian để trò chuyện, ăn nhẹ và quan sát xung quanh”.

Thật tao nhã, chỉ “ăn nhẹ” thôi nhé, để không bị phân tâm khi quan sát vũ trụ kỳ diệu đang hiện hữu ngay ở sảnh B.

Ngoài chuyện đọc sách, giáo dục trẻ con là cái mà người Việt luôn tầm sư học đạo. Tình hình rối như canh hẹ. Lúc thì người ta khuyên nhau nên nuôi con thành nhẫn nại, khiêm nhường “như người Nhật”. Lúc khác thì lại phải biến chúng thành quyết đoán, phá cách “như người Mỹ”.

Buổi sáng thì tới khóa học “bí quyết nuôi con thành thông minh của người Do Thái”, buổi tối lại nghiền ngẫm triết lý được cho là của Nhật rằng “trẻ em không cần phải quá thông minh; thông minh, học giỏi không hẳn là một điều tốt”.

Những nỗ lực này làm ta liên tưởng tới một đại gia đình thường xuyên ca cẩm về sự suy tàn của dòng họ mình, và cử những đứa con ra ngoài thám thính các gia đình thành công trong phố.

“Họ dậy rất sớm để tập thể dục, sau đó ăn nhẹ và quan sát xung quanh”, một đứa trở về và tuyên bố. Đứa khác lại cho biết “Họ làm việc thâu đêm trên máy tính, đó là bí quyết thành công của họ”.

Điều mà đại gia đình này thiếu là niềm tin vào các giá trị của bản thân và khả năng phân tích, đánh giá và phán xét thế giới xung quanh để không mù quáng chạy theo người khác.

Sự khâm phục và ngưỡng mộ phương Tây và Nhật Bản này đạt tới đỉnh điểm qua phát ngôn kiểu: “Tôi có người cháu học ở nước ngoài về nói rằng họ có thể chăm chút cả đám mây bay trên bầu trời” (1).

Nhưng phần đông chúng ta cũng đã biết rằng “nước ngoài” cũng không phải là một miền đất hứa êm đềm, đầy mật ngọt trên mặt đất và tiếng chuông lục lạc vang trong không trung. Và cư dân của nó cũng là những người trần mắt thịt, cũng luẩn quẩn trong tham, sân, si, cũng vô minh và bối rối trong cuộc sống.

Ví dụ ư? Có ai biết là theo điều tra của Quỹ Khoa học quốc gia Mỹ năm qua thì 1/4 dân số Mỹ cho rằng mặt trời quay xung quanh Trái đất (2). Có ai biết là trong năm 2013, 28% người Mỹ không đọc bất cứ một cuốn sách nào (3), và số lượng người Mỹ không đọc sách, theo The Atlantic, đã tăng gấp ba kể từ năm 1978.

Vẫn nói chuyện về sách, có ai biết là 1/3 doanh thu của thị trường sách cho người lớn ở Nhật tới từ truyện tranh. Trong hình dung lãng mạn của người Việt, người Nhật ngồi ở tàu điện ngầm chăm chú đọc Khởi nghiệp của Fukuzawa.

Thực tế trần trụi là họ nghiền ngẫm manga, chỉ cần nhìn khách Nhật ở các quán sushi tại Hà Nội thì biết. Nhà văn Murakami tin rằng chỉ 5% dân số Nhật thật sự yêu quý sách.

Còn về người Do Thái, thật đáng tiếc là phải làm sứt mẻ huyền thoại về “quốc gia khởi nghiệp”, nhưng Israel đang có vấn đề lớn với cộng đồng quốc tế bởi những gì họ làm với người Palestine. Họ có hạnh phúc không? Một thăm dò năm 2010 nói 77% người Israel cho rằng bất kể họ làm gì thế giới cũng sẽ phê phán (4).

Nêu ra những chuyện trên không phải để chúng ta trở nên kiêu ngạo, cho rằng “họ cũng không hơn gì ta”, hay “người Việt được thế là tốt lắm rồi”, hay “dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, thậm chí miệt thị “Tây ngố”, như các du học sinh Đông Âu thập niên 1970-1980 vẫn làm trong khi ăn học ở nước họ. Khao khát học hỏi từ những văn hóa khác là một việc tốt và cần thiết.

Nhưng thái độ yêu thích nước ngoài một chiều ấy đang ẩn chứa nhiều vấn đề, và nó đang đóng mắt chúng ta lại, thay vì mở ra.



THÁCH THỨC CỦA MỘT QUÁ TRÌNH HỌC HỎI



Việc mải mê chạy theo Nhật, phương Tây, Do Thái và tôn sùng hời hợt họ thật ra đang cản trở việc học hành của chúng ta. Vì trước hết, nó hàm ý một thái độ phân biệt chủng tộc và kỳ thị.

“Anh từ châu Phi tới ư”, chúng ta thầm nói với bản thân khi đứng trước một người da đen, “nước các anh cũng nghèo, các anh cũng vứt rác ra đường và bấm còi inh ỏi? Vậy các anh không có gì để chúng tôi học cả”. Thái độ này khiến chúng ta bỏ qua những kho báu của nhân loại.

Thật đáng tiếc cho những ai nhìn thấy 500 triệu người Ấn Độ hiện vẫn thích ra ngoài đồng hơn là ngồi trong toalet, mà vì thế cho rằng nền văn hóa Ấn Độ không có gì để dạy họ.

Bao nhiêu người trong chúng ta biết rằng Lebanon, một đất nước mà ta không biết gì về nó, đã đóng góp cho thế giới nhà thơ thiên tài Khalil Gibran, tác giả được đọc nhiều nhất trên thế giới chỉ sau Shakespeare, và tác phẩm Nhà tiên tri của ông cho chúng ta những suy ngẫm tuyệt vời về tình yêu, hôn nhân, niềm vui và nỗi buồn, học và dạy học, tình bạn, khoái cảm, đau đớn, cái đẹp, tôn giáo và cái chết?

Tôi cho rằng những người bị hút hồn bởi “nước ngoài lấp lánh” vì thực chất họ chỉ quan tâm làm thế nào để trở nên giàu có, mặc dù chỉ mới tự nhủ là ta muốn học để trở thành văn minh. Bởi nếu muốn học để biết phải sống như thế nào, chúng ta có thể học được nhiều lắm, từ bất cứ quốc gia hay dân tộc nào.

Chúng ta có thể học từ sự dũng cảm của những người mẹ của quảng trường de Mayo, Argentina, những người trong thập niên 1970 đã thách thức chính quyền quân đội độc tài phải giải thích về sự biến mất của hàng ngàn con trai họ.

Chúng ta có thể học từ những sinh viên Myanmar năm 1988, khi họ đứng lên phản đối chế độ quân chủ. Chỉ cần giảm một nửa số lượng bài viết ca ngợi cái sạch sẽ của người Nhật, cái lịch sự của người Mỹ, thay vào đó là những ví dụ trên thì thế giới của chúng ta đã phong phú và giàu có lên biết bao nhiêu.

Ngay cả từ phương Tây, Nhật và Do Thái, chúng ta cũng tiếp tục phải học, nhưng không chỉ từ chuyện không vượt đèn đỏ hay không vứt rác ra đường vẫn hay được thường xuyên nhắc tới.

Chúng ta có thể rút ra bài học vì sao nhiều triệu người Đức, chỉ cách đây có 60 năm thôi, đã có thể mê muội đi theo một học thuyết diệt chủng và tuân thủ người cầm đầu của họ như chưa bao giờ một dân tộc tuân thủ lãnh tụ của mình như vậy.

Và chúng ta có thể học từ những vất vả và đau đớn mà người Đức đã trải qua trong sáu thập kỷ qua để xây dựng nền dân chủ của mình. Khi xây dựng lại nhà quốc hội ở Berlin bị tàn phá trong chiến tranh, sau khi thống nhất Đông và Tây Đức, người ta tìm thấy và quyết định bảo quản các graffiti tiếng Nga của những người lính Hồng quân Liên Xô trên tường.

Nhà báo George Packer của The New Yorker chỉ ra rằng không một quốc gia nào khác trên thế giới trưng bày bút tích của kẻ chinh phục mình trong tòa nhà quan trọng nhất của đất nước. Không học từ đấy thì học từ đâu?

Mỗi đất nước, dân tộc, văn hóa, thậm chí mỗi cá nhân là một vũ trụ phức tạp, chứ không phải là những nhân vật của một vở kịch tuyên truyền thô thiển: người này giỏi, người kia kém, trắng đen rõ ràng và bất biến. Thách thức trong quá trình học hỏi là nhận biết được sự phức tạp, những xung đột, những chấn thương, bế tắc, những năng lượng của một quốc gia, một nền văn hóa.

Ngược lại, càng mù quáng, tôn sùng vô điều kiện một cái gì đó thì lại càng dễ thất bại. Và khi vỡ mộng, người ta lại càng vội vã tuyên bố phải “thoát” nó ngay lập tức để chạy tới tôn thờ một cái mới. Tâm thế đó là tâm thế của những kẻ mất tự do.



ĐẶNG HOÀNG GIANG

Nhận xét